những vụ án nổi tiếng - Page 3

học hỏi những đều mới lạ về thế giới xung quanh,nâng cao trình độ phá án và rèn luyện IQ của bạn tốt hơn

những vụ án nổi tiếng - Page 3 Cnhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Hnhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Anhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Onhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Spacenhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Mnhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Unhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Nnhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Gnhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Spacenhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Bnhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Anhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Nnhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Spacenhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Dnhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Enhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Nnhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Spacenhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Vnhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Onhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Inhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Spacenhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Cnhững vụ án nổi tiếng - Page 3 Ynhững vụ án nổi tiếng - Page 3 M
573 Số bài - 84%
42 Số bài - 6%
27 Số bài - 4%
24 Số bài - 4%
10 Số bài - 1%
3 Số bài - 0%
1 Bài gửi - 0%
1 Bài gửi - 0%
[b]
Bài gửiNgười gửiThời gian
Kỷ niệm 6 năm thành lập 4rum những vụ án nổi tiếng - Page 3 MasterSun May 22, 2016 4:34 pm
thông báo cách chức những vụ án nổi tiếng - Page 3 MasterMon Sep 10, 2012 7:33 pm
nhug bi mat ve gioi tinh những vụ án nổi tiếng - Page 3 MasterMon Sep 10, 2012 7:24 pm
tái lập 4rum theo định hướng mới những vụ án nổi tiếng - Page 3 MasterMon Sep 10, 2012 7:19 pm
ben le phim !THAN THOAI LINH CHAU!! những vụ án nổi tiếng - Page 3 MasterThu Oct 06, 2011 8:54 pm
tro ve noi cuoi cung cua dat nuoc những vụ án nổi tiếng - Page 3 MasterThu Oct 06, 2011 8:51 pm
tro ve mien nuoc những vụ án nổi tiếng - Page 3 MasterThu Oct 06, 2011 8:49 pm
làm khung tài sản những vụ án nổi tiếng - Page 3 MasterTue Sep 27, 2011 9:29 pm
tuyển design cho học viện mới chúng ta CYM những vụ án nổi tiếng - Page 3 MasterSun Aug 14, 2011 8:20 pm
happy birthday 4r những vụ án nổi tiếng - Page 3 MasterWed Jul 13, 2011 12:34 pm
Nghĩa địa người ngoài hành tinh ở châu Phi những vụ án nổi tiếng - Page 3 MasterTue Jul 12, 2011 8:36 pm
khuyến khích mời thành viên những vụ án nổi tiếng - Page 3 MasterSun Jul 10, 2011 3:21 pm
thú nuôi đây.... những vụ án nổi tiếng - Page 3 MasterSat Jul 09, 2011 8:42 am
[Giao lưu]Kết bạn cùng Shinichi&Ran fc ^^ những vụ án nổi tiếng - Page 3 MasterThu Jul 07, 2011 9:35 am
cái chết của ph0ng viên những vụ án nổi tiếng - Page 3 MasterTue Jul 05, 2011 10:04 pm


You are not connected. Please login or register

Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5  Next

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down  Thông điệp [Trang 3 trong tổng số 5 trang]

51những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Tue Aug 03, 2010 7:39 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Người đàn bà và bản án 50 năm tù



Khunthea đã phải lãnh án 50 năm tù, một bản án rất nặng của Thái Lan, vì tội đã bán 8 cô gái vị thành niên Campuchia vào nhà chứa Malaysia. Vụ án này nằm trong hàng loạt các chiến dịch đấu tranh chống tội phạm mại dâm của châu Á.

Các cô gái chưa đến tuổi trưởng thành này đã bị Khunthea dụ dỗ đến Bangkok để bán quần áo và mì gói, nhưng sự thật là các em bị đem bán vào các nhà chứa ở Malaysia. Nhưng khi sang đến nước này cảnh sát đã phát hiện sự nhập cư bất hợp pháp và họ đã bị bắt giữ.

Các quan chức Liên Hiệp Quốc cho biết, đây là kết quả của sự hợp tác xuyên quốc gia giữa các ủy viên công tố, cảnh sát và cơ quan nhà nước các bên. Trong quá khứ, những cuộc điều tra tương tự đã gặp không ít rắc rối do sự khác biệt về luật pháp quốc gia và sự định nghĩa về hành vi buôn bán các nạn nhân. Nhiều quốc gia châu Á cho rằng những người nhập cư bất hợp pháp đều là tội phạm, bất kể trong hoàn cảnh nào.

Trong những năm qua, một vài vụ buôn người đã bị truy tố trước pháp luật và lãnh những bản án khá nặng. Các quan chức hy vọng sức ép quốc tế nhằm ngăn chặn hoạt động buôn bán phụ nữ cuối cùng sẽ có các kết quả đáng khích lệ. Một nhà ngoại giao phương Tây nói: “Tôi nghĩ rằng các ủy viên công tố và thẩm phán đang bắt đầu chú ý đặc biệt đến các vụ tội phạm buôn bán phụ nữ. Bản án 50 năm tù dành cho Khunthea là trường hợp chưa từng có trong các vụ buôn người trước đây ở Thái Lan”.

Thái Lan đã trở thành trung tâm buôn người bất hợp pháp mà người ta gọi là thị trường nô lệ thời hiện đại. Mỗi năm có hàng chục ngàn thanh thiếu niên bị rao bán ở Đông Nam Á, không chỉ trong kỹ nghệ sex mà còn trong lao động trong nhà. Bọn buôn người đã lợi dụng sự lạc hậu của người dân nông thôn ở Campuchia, Lào và Burma (Myanmar), những nơi mà người ta xem chuyện đi làm việc nơi xứ người là giải pháp tốt nhất để thoát cảnh cơ cực, nghèo đói.

Trong báo cáo hàng năm về tội phạm buôn người năm 2004, Bộ Ngoại giao Mỹ đã phê phán Thái Lan thiếu sự quan tâm đúng mức tới loại hình tội phạm này. Phía Thái Lan thì cho rằng họ đã tăng cường các chiến dịch điều tra trong các năm sau này và kết quả là đã triệt phá được hàng chục mạng lưới tội phạm hoạt động xuyên suốt các vùng biên giới lỏng lẻo của khu vực. Họ nói, một trong những khó khăn của các chiến dịch điều tra như thế là sự thiếu bằng chứng cần thiết để kết án. Tướng Amnuai Pethsiri, Giám đốc Đơn vị bảo vệ trẻ em của Cảnh sát Thái Lan, cho biết: “Trong trường hợp buôn người quốc tế, nếu các nạn nhân quay về quê quán của họ thường sợ hãi đến mức không dám trình diện trước tòa thì việc xét xử bọn tội phạm rất khó tiến hành”.

Năm 2004, cả 8 cô gái là nạn nhân của Khunthea đã đến Bangkok để làm chứng chống lại Khunthea và xác định căn nhà mụ ta đã giam giữ họ trước khi đem bán sang Malaysia. Sau đó cả 8 cô gái này đã được đưa về nước và hiện nay họ đã có việc làm mới. Cảnh sát cho biết, gia đình của 8 cô gái này sẽ nhận được 75 USD/tháng một khi con gái họ được làm việc ở biên giới Thái Lan. Nhưng nơi đến của các cô gái lại là một quán karaoke ở thủ đô Kuala Lumpur của Malaysia, nơi họ ép buộc hành nghề mại dâm. Bi kịch của 8 cô gái chỉ chấm dứt khi họ được cảnh sát giải cứu khỏi quán karaoke đó.

Theo các quan chức ở Liên Hiệp Quốc, chẳng có gì lạ khi các nạn nhân bị buôn bán ngày càng nhiều, đặc biệt khi các nước trục xuất họ về nguyên quán mà không thực hiện các biện pháp bảo vệ thích đáng. Hiện nay, cảnh sát Thái Lan, Malaysia và Campuchia đang truy lùng 8 đường dây buôn người khác trong mạng lưới tội phạm xuyên quốc gia này. Tuy nhiên, theo nhận xét của các chuyên gia, đây mới chỉ là sự bắt đầu và các nạn nhân cần phải hợp tác tích cực với cảnh sát để đưa bọn buôn người ra trước tòa

ANTG
__________________

https://hv2tconan.forumvi.com

52những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Tue Aug 03, 2010 7:39 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Cái chết đáng ngờ của một chuyên gia về Sherlock Holmes



Mùa xuân năm 2004, cảnh sát London phát hiện nhà triệu phú Richard Lancelyn Green, đồng thời là một chuyên gia về Sherlock Holmes bị giết. Ông này bị một chuyên gia khác về Sherlock Holmes giết do ganh tị hay tự sát?

Khi được cảnh sát tìm thấy, Green, chủ sở hữu một kho tàng lớn những cuốn sách và đồ vật liên quan đến nhà văn Conan Doyle, đang nằm vắt trên chiếc giường. Xung quanh ông ta có rất nhiều những đồ chơi nhồi rơm và một chai rượu gin. Cổ nạn nhân bị thắt bằng một sợi dây giày quấn quanh một chiếc muỗng gỗ để vặn cho chặt.

Không lâu trước khi chết, Green đã từng cảnh báo với người thân về việc cuộc sống của mình đang bị đe dọa. Trong căn hộ của mình, ông đã phát hiện ra các thiết bị nghe trộm. Ông còn kể về một chiếc xe hơi màu đen bí ẩn thường xuyên bám theo ông mỗi khi rời khỏi nhà.

Bao chuyện phiền toái được bắt đầu sau khi những người thừa kế của Conan Doyle quyết định đem bán đấu giá các tài liệu của ông, khiến cho những người hâm mộ nhà văn này gần như phát cuồng lên với mong muốn là người sở hữu chúng. Tất cả số tài liệu quý báu này được định giá 2,5 triệu bảng.

Green không muốn tài sản quốc gia này của Anh bị rơi vào tay những nhà tài phiệt giàu có tại Mỹ và đã tìm mọi cách ngăn cản chuyện đấu giá này. Kể từ đó Green bắt đầu nhận được những lời đe dọa công khai. Theo một giả thuyết, đã có kẻ thuê người tìm cách xâm nhập vào nhà ông và đã để lại một số dấu tay.

Richard Green từ hồi trẻ đã rất say mê với nhân vật thám tử huyền thoại Sherlock Holmes do thừa hưởng niềm say mê văn học của cha mình, vốn là một nhà văn viết truyện thiếu nhi. Ông rất thích sưu tầm đồ vật có liên quan đến Conan Doyle và dành thời gian để viết một bộ tiểu sử dày ba tập về nhà văn này.

Khi quyết định tham gia bảo vệ kho tài liệu lưu trữ về Doyle, Green cũng nói với tất cả mọi người rằng, ông có thể gặp nguy hiểm. “Tôi lo ngại cho mạng sống của mình!” - Green đã tâm sự với những người thân như vậy.

Kẻ đặt hàng cho tội ác trên - theo các nhà báo Anh nhận định - rất có thể là Jon Lellenberg, viên giám đốc 58 tuổi của một đơn vị chống khủng bố siêu bí mật trong thành phần Lầu Năm Góc. Nhân vật này đang tiến hành những chiến dịch chống khủng bố trên toàn thế giới và cũng đang hợp tác rất chặt chẽ với các cơ quan mật vụ Anh.

Dưới quyền của chuyên gia bắt cóc và ám sát bí mật này còn có đơn vị đặc nhiệm SEAL gồm toàn những siêu biệt kích trong thành phần quân đội Mỹ. Trong thời gian rảnh rỗi, Lellenberg lại có một sở thích rất khác thường là nghiên cứu về Sherlock Holmes và thậm chí còn viết tiểu sử của Conan Doyle. Chính Lellenberg đã đích thân đứng ra thuyết phục những người thừa kế của nhà văn để bán cho ông ta những tài liệu này.

Mười năm trước đây, Lellenberg đã gặp gỡ Green trong khuôn khổ một hội kín của những người yêu thích Sherlock Holmes. Các thành viên mới chỉ có thể gia nhập hội này nếu như có được sự giới thiệu của các thành viên chính thức. Lellenberg dần dần trở thành một đối thủ chính của Green đồng thời với mối ác cảm giữa hai người ngày càng tăng.

Cả hai đều cạnh tranh nhau trong việc sở hữu bất cứ một di vật nào dù là nhỏ nhất có liên quan đến Conan Doyle và các nhân vật của ông. Green còn lên tiếng buộc tội Lellenberg đã đánh cắp và viết lại những công trình nghiên cứu của ông theo văn phong của mình. Còn một sự trùng hợp ngẫu nhiên nữa khi đúng vào ngày Green bị sát hại, Lellenberg đang có mặt tại London.

Nhưng cũng có những người khác quả quyết đây là một vụ tự sát có chủ ý của Green. Theo họ, vụ này có phần tương tự câu chuyện “The Problem of The Bridge”, trong đó một bà vợ được phát hiện nằm chết trên chiếc cầu và bị bắn vào đầu.

Tất cả những bằng chứng điều tra ban đầu đều tập trung mũi nhọn vào cô giáo tư gia, người đang được chồng của nạn nhân tán tỉnh. Cuối cùng thám tử Sherlock Holmes đã điều tra và chứng minh cho thấy, nạn nhân đã dàn dựng ra vụ tự sát của chính mình nhằm đổ tội cho tình địch...

https://hv2tconan.forumvi.com

53những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Tue Aug 03, 2010 7:40 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Vụ trả thù sau 30 năm của Jean Baptiste



Ôm mối hận thù suốt 30 năm với dòng họ Beidi chỉ vì ông Gilles Beidi, môt nhà báo uy tín của Pháp, minh oan cho kẻ bị buộc tội sát hại em gái mình, Jean Baptiste đã trả thù bằng cách giết hại Corinne Beidi, cô con gái nhà Beidi.

Tại thành phố Marseille, miền Nam nước Pháp, ai cũng biết tiếng Corinne Beidi, 42 tuổi, không phải vì người phụ nữ trung niên còn độc thân này là con gái của nhà báo lão thành Gilles Beidi mà còn là một doanh nhân thành đạt, chủ một công ty chuyên cung ứng dịch vụ hậu cần cho các đoàn làm phim. Là một phụ nữ có trái tim nhân hậu, Corinne Beidi luôn có mặt trong các phong trào làm từ thiện của thành phố. Vậy mà vào ngày 21/11/2004, chẳng ai còn thấy tăm hơi của Corinne Beidi đâu cả. Gia đình rồi nhân viên công ty cho đến bạn bè nháo nhào đi tìm cô. Mãi 3 ngày sau không thấy Corinne Beidi xuất hiện nên gia đình mới báo cảnh sát. Kiểm tra căn hộ riêng của Corinne Beidi trên đại lộ Leclerc, cảnh sát không tìm thấy bất cứ dấu vết nào liên quan đến vụ mất tích bí ẩn này.

Mãi đến chiều ngày 16/1/2005, một nhân viên kiểm lâm khi đi kiểm tra khu rừng ở phía nam thành phố Marseille đã phát hiện ra một chiếc xe loại Renault Sentra được giấu dưới một lùm cây rậm rạp nên liền báo tin cho cảnh sát. Xác minh của cảnh sát cho biết đó chính là chiếc xe của Corinne Beidi. Còn khi kiểm tra xe, cảnh sát phát hiện có ba dấu vân tay lạ ở mép kính cửa xe trước mà khi tiến hành so sánh đều cho kết quả đó không phải là dấu vân tay của Corinne Beidi. Tiến hành đối chiếu với hàng chục ngàn hồ sơ vân tay lưu giữ tại Sở Cảnh sát thành phố Marseille, các nhân viên điều tra vẫn không tìm ra được người có dấu vân tay như thế. Điều đó chứng tỏ người này chưa có tiền án.

Do không muốn để vụ mất tích chìm vào bế tắc nên cảnh sát quyết định chuyển hướng điều tra vào các mối quan hệ của Corinne Beidi. Sau khi lên danh sách, thiết lập các mối quan hệ rồi tiến hành sàng lọc, cảnh sát chú ý đến một người đàn ông tên Jean-Bapstiste Rambla, 54 tuổi, người Marseille, làm nhân viên bảo vệ cho công ty của Corinne Beidi từ năm 1999.

Jean-Baptiste Rambla sinh năm 1951 tại Sainte-Agnès của thành phố Marseille trong một gia đình chuyên độc quyền thu mua và phân phối hải sản tại cảng Marseille. Năm 1969, hắn gia nhập hải quân rồi giải ngũ sau đó ba năm. Trở lại Marseille, hắn được cha là ông Pierre Rambla, giao điều hành công việc làm ăn của gia đình đang bị cạnh tranh ráo riết bởi các băng nhóm đến từ các thành phố Nice, Annecy và cả từ đảo Corse. Đã không ít lần xảy ra xung đột, đụng độ giữa gia đình Rambla và các băng nhóm. Chính trong bối cảnh cạnh tranh ráo riết như vậy đã xảy ra một vụ bắt cóc rồi giết người vào tháng 12/1974. Nạn nhân là Marie-Dolorèa Rambla, em gái của Jean-Baptiste Rambla, bị một kẻ lạ mặt bắt giữ rồi giết chết, sau đó vất xác tại một bãi biển. Sau một thời gian ngắn điều tra, cảnh sát bắt giữ được một nghi phạm tên Christian Ranucci dựa vào lời khai của nhiều nhân chứng cho biết đã trông thấy Marie-Dolorès có mặt trên chiếc xe Citroen cùng Christian Ranucci vào hôm xảy ra vụ án mạng. Tòa án thành phố Marseille đã tuyên Christian Ranucci là thủ phạm giết hại Marie-Dolorès và bị kết án tử hình.

Bản án tử hình được tuyên cho Christian Ranucci không những làm chia rẽ dư luận thành phố Marseille mà cả nước Pháp. Các cuộc tranh luận xung quanh vụ án Christian Ranucci càng trở nên gay gắt hơn khi xuất hiện một cuốn sách có tựa đề "Chiếc áo thun màu đỏ", mang nội dung minh oan cho Christian Ranucci, mà tác giả là một nhà báo có uy tín làm việc tại nhật báo La Marseillaise tên là Gilles Beidi. Cuốn Chiếc áo thun màu đỏ lập tức lay động dư luận Pháp. Kết quả là tại phiên tòa chung thẩm mở ra vào tháng 6/1975, Christian Ranucci đã được giảm tội tử hình xuống còn 20 năm tù giam. Cho rằng 20 năm tù giam vẫn là bản án oan đối với Christian Ranucci, nên nhà báo Gilles Beidi vẫn kiên trì cuộc đấu tranh đòi minh oan cho Ranucci.

Thế nhưng việc làm này của Gilles Beidi đã khiến cho gia đình Rambla phải tức giận. Từ đó sự thù hận giữa dòng họ Rambla đối với dòng họ Beidi càng thêm sâu. Cho đến khi Gilles Beidi qua đời vào năm 1991, mối hận thù này lại dồn hết vào Corinne Beidi, cô con gái duy nhất của Gilles Beidi. Thế nhưng, chính Jean-Baptiste Rambla lại là người muốn trả thù cho cô em gái xấu số của mình nhiều nhất.

Năm 1999, Corinne Beidi thành lập Công ty ProFilm, chuyên cung cấp các dịch vụ hậu cần cho các đoàn làm phim và mời Jean-Baptiste Rambla phụ trách công tác bảo vệ như là một hành động mong muốn xóa đi mối bất đồng giữa hai gia đình từ nhiều thập niên qua. Thế nhưng, cô không ngờ hành động thiện chí này sẽ cướp đi sinh mạng của mình.

Biết rằng, Corinne Beidi thường làm việc mãi đến chiều tối mới rời văn phòng để trở về căn hộ của mình trên đại lộ Leclerc, nên chiều tối ngày 21/11/2004, Jean-Baptiste Rambla đợi Corinne Beidi ra về rồi xin nhờ quá giang đến nhà một người bạn ở phía tây thành phố. Tới một con đường vắng sát bờ biển, Jean-Baptiste dùng một vật cứng đánh mạnh vào đầu Corinne Beidi rồi sau đó siết cổ cô cho đến chết. Xong việc, hắn đánh xe đem xác nạn nhân về vùi dưới một cái hố phía sau vườn nhà rồi đem giấu xe trong khu rừng phía nam thành phố Marseille.

Chính việc chuyển hướng điều tra kịp thời của cảnh sát đã làm sáng tỏ vụ mất tích của Corinne Beidi. Sau nhiều lần bị thẩm vấn, cuối cùng Jean-Baptiste Rambla cũng thú nhận tội trạng của mình. Ngày 12/2/2005, chỉ cần hai giờ để đào bới trong khu vườn sau nhà của Jean-Baptiste, cảnh sát đã tìm thấy thi thể của Corinne Beidi. Một ngày không xa, Jean-Baptiste Rambla sẽ phải trả giá cho tội ác mà hắn đã gây ra

ANTG

https://hv2tconan.forumvi.com

54những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Tue Aug 03, 2010 7:40 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
John Dillinger: tên cướp nhà băng “kẻ thù số 1 của xã hội Mỹ”



Cái danh hiệu khá kêu này được đích thân Giám đốc Cục Điều tra liên bang Mỹ (FBI) Edgar Hoover đặt cho John Herbert Dillinger - tên tội phạm được coi là liều mạng nhất, khát máu nhất, tàn nhẫn nhất, khôn ngoan nhất, nhanh nhẹn nhất và không thể bắt được trong lịch sử nước Mỹ nửa đầu thế kỷ XX.

Cũng như một số tên cướp nguy hiểm khác như Bonnie Parker và Clyde Burrow, Dillinger chuyên tiến hành những vụ cướp ngân hàng và trong một thời gian ngắn đã trở thành mối đe dọa thực sự đối với an ninh quốc gia của Mỹ...

John Dillinger sinh ngày 22/6/1903 tại ngoại ô Oak Hill của Indianapolis. Hồi nhỏ, John là một cậu bé nhanh nhẹn, cởi mở và dễ thương. Nhưng những ngày tháng hạnh phúc của thời thơ ấu vô tư đã nhanh chóng kết thúc: khi mới 3 tuổi, mẹ cậu qua đời. Mọi gánh nặng chăm sóc cậu bé dồn lên vai cô chị 17 tuổi Ordi. Sáu năm sau, cha John đi bước nữa, còn cô chị gái Ordi đi lấy chồng. Đến lúc này, môi trường giáo dục của John chính là... đường phố. Cậu ta thường xuyên bỏ học và dính dáng vào nhiều vụ đánh nhau. Mới 9 tuổi, John đã lập ra một băng nhóm tội phạm nhí chuyên đánh cắp hàng hóa trên các toa tàu.

Năm 16 tuổi, Dillinger từ bỏ luôn cả cha và mẹ kế lẫn trường học để bắt đầu cuộc sống lang bạt. Năm 20 tuổi, John gia nhập Hải quân Mỹ nhưng sau đó đào ngũ. Lang thang tới Mooresville, Dillinger làm quen và cưới cô gái 16 tuổi Beryl Hovius làm vợ. Nhưng cuộc sống gia đình không ngăn cản nổi những thói quen nổi loạn của Dillinger.

Sau khi gặp gỡ một người bạn cũ là Ed Singleton, cả hai quyết định tổ chức một vụ cướp tại nhà của ông chủ quầy thực phẩm Frank Morgan, người mà theo tin đồn ở thị trấn là có rất nhiều tiền. Dillinger mang theo một khẩu súng lục và cây gậy sắt, bí mật phục sẵn tại nhà Morgan. Khi ông chủ cửa hàng xuất hiện, hắn dùng gậy sắt đập vào đầu ông từ phía sau. Xui cho Dillinger là ông già còn rất khỏe: sau khi ngã, ông còn kịp quay lại giằng được khẩu súng lục ra khỏi tay tên cướp. Một tiếng nổ vang lên do súng bị cướp cò. Tên cướp sợ hãi chạy vội ra ngoài xe của đồng bọn chờ sẵn. Nhưng khi nghe thấy tiếng nổ, Singleton đã nổ máy chuồn trước. Frank Morgan tất nhiên là biết rất rõ kẻ tấn công mình, vì ở cái thị trấn nhỏ bé này mọi người đều biết nhau. Ngay hôm sau, cảnh sát đã tóm được cả Dillinger lẫn Singleton. Dillinger phải nhận bản án 10 năm tù, còn Singleton là 5 năm.

“Học” trong tù

Trong môi trường mới của nhà tù, Dillinger đã có dịp quen biết với rất nhiều thành phần trong giới tội phạm, đặc biệt là Harry Pierpont và Homer Van Meter. Chính Pierpont đã trở thành “sư phụ” của Dillinger về nghệ thuật ăn trộm cũng như việc nhòm ngó loại “tiền nhẹ” - tiếng lóng chỉ tiền nằm trong các ngân hàng. Nhưng Dillinger vẫn còn phân vân vì muốn quay về sống lương thiện với cô vợ trẻ mà mình rất mực yêu thương. Nhưng mọi chuyện đã thay đổi hẳn kể từ ngày 20/6/1929, khi Beryl đề nghị ly hôn. Từ đây cuộc đời hắn chuyển sang một chương mới.

Sau khi chuyển đến nhà tù tại thị trấn Michigan-City, bộ ba Pierpont - Meter - Dillinger còn lôi kéo được thêm hai thành viên nữa là Walter Dietrix và German Lamm, một cựu sĩ quan trong quân đội Đức. Chính những kiến thức và kinh nghiệm quân sự của Lamm là cơ sở cho việc soạn thảo các chiến thuật của những tên cướp nhà băng tương lai.

Ngày 22/5/1933, John Dillinger được trả tự do trước thời hạn vì “có ý thức cải tạo tốt”. Tám năm rưỡi trong tù không hề “uổng phí” đối với hắn - Dillinger đã trở nên lỳ lợm và táo bạo hơn rất nhiều. Giờ đây, hắn chỉ quan tâm tới tiền và những quyền lực mà nó mang lại.

Băng cướp reo rắc kinh hoàng

Ngay sau khi ra tù, Dillinger đã nhờ đến Mary Kinder là bạn gái của Harry Pierpont để tổ chức cuộc vượt ngục cho các "chiến hữu". Kết quả, ngày 26/9 đã có 10 tên tội phạm trốn thoát khỏi nhà tù Michigan-City, trong đó có Pierpont, Charles McLey, John Hamilton, Walter Dietrix và Rachel Clark. Chính những tên này đã hình thành nên bộ khung cho băng cướp của Dillinger. Tuy nhiên, 4 ngày trước cuộc chạy trốn của đồng bọn, Dillinger lại bị bắt giữ tại thành phố Dayton (bang Ohio) và được đưa tới nhà tù ở thành phố Lima. Thế là mục đích phi vụ đầu tiên của nhóm cướp mới thành lập là giải cứu cho thủ lĩnh của mình.

Ngày 12/10, 3 tên Harry Pierpont, Charles Mcley và Rachel Clark giả dạng là nhân viên FBI đột nhập đồn cảnh sát khu vực ở Lima. Sau khi bắn chết Cảnh sát trưởng Jessy Sarber, chúng phá khóa giải cứu cho Dillinger và nhanh chóng chuồn mất. Để có nhiều vũ khí cho những vụ cướp ngân hàng, nhóm của Dillinger còn táo tợn đột kích vào các đồn cảnh sát. Chỉ sau hai vụ tấn công, Dillinger và tay chân đã có cả một đống vũ khí.

Lúc này, chúng bắt đầu đẩy mạnh hoạt động. Chỉ một thời gian rong ruổi trên đất Indiana, cái tên Dillinger đã trở thành nỗi kinh hoàng của giới nhà băng và những người giàu có. Ngày 23/10/1933, một nhóm do Dillinger cầm đầu đã tổ chức tấn công Central National Bank và cướp đi 75 ngàn USD. Cùng lúc đó, nhóm thứ hai cũng xông vào “dọn sạch” First National Bank tại thị trấn Brainerd (Minnesota). Chỉ trong một ngày, Dillinger và đồng bọn đã bỏ túi hơn 100 ngàn USD.

Ngày 20/10, Dillinger cùng các chiến hữu tấn công American Bank and Trust Company lấy đi 27 ngàn USD. Trong khi đấu súng, chúng đã bắn bị thương trung sĩ Wilbur Hansen và thủ quỹ Harry Graham.

Đến vụ tấn công First National Bank tại East-Chicago ngày 15/1/1934, Dilligan đã thẳng tay bắn chết viên cảnh sát Wiliam Patrik O'Melly. Sự kiện này đã khóa chặt con đường sống của Dilliger vì hắn biết: sát hại một cảnh sát chắc chắn sẽ nhận bản án lên ghế điện.

Chiến dịch săn lùng và kết cục của tên cướp

Tháng 10/1933, lo sợ trước sự hoành hành của băng cướp, Thống đốc bang Indiana đã phải kêu gọi đến sự giúp đỡ của cả vệ binh quốc gia. Tham gia vào việc truy lùng Dillinger còn có cả Giám đốc Cục Điều tra liên bang Edgar. Ông này còn cử riêng một bộ phận tới 3.000 người để giúp đỡ cảnh sát. Họ đã tổ chức lùng sục nhằm truy tìm Dillinger suốt ngày đêm nhưng không có kết quả. Tình hình phức tạp đến nỗi, Tổng thống Franklin Roosevelt đã chỉ thị cho Viện trưởng Viện Kiểm sát thông qua những “biện pháp đặc biệt” bằng mọi cách phải tiêu diệt nhóm cướp của Dillinger.

Sau vụ cướp ngân hàng East Chicago, nhóm của Dillinger chuyển tới thành phố Tucson (Arizona), nghỉ ngơi trong một khách sạn sang trọng dưới những cái tên giả. Chính tại đây đã xảy ra một chuyện bất ngờ nằm ngoài dự tính. Vào một đêm, khi bọn cướp đang ngủ say thì khách sạn bị cháy vì chập điện. Nhân viên cứu hỏa James Friman đã đập vỡ cánh cửa gian phòng, cứu Dillinger và tay chân của hắn. Trước khi bước lên xe cứu thương vào bệnh viện, Dillinger còn hào phóng tặng cho ân nhân của mình một khoản tiền không hề nhỏ.

Về tới nhà, Friman mới biết là mình đã cứu chính Dillinger sau khi nhìn thấy hình của hắn trong một cuốn tạp chí. Thế là một cú điện thoại nhanh chóng được gọi tới đồn cảnh sát khu vực. Cảnh sát trưởng George Hanter khi nghe được thông tin trên đã nhanh chóng cùng các đồng sự tới bệnh viện để xác minh và đã làm được một việc mà lực lượng cảnh sát điều tra gần như bất lực - đó là bắt giữ Dillinger và đồng bọn. Ba tên trong số này - Pierpont, Mcley và Clark - được áp giải tới Lima, nơi chúng đã bắn chết Cảnh sát trưởng Jessy Sarber. Còn Dillinger được chuyển tới nhà tù Crown Point, Indiana bằng máy bay. Áp giải hắn tới sân bay Chicago là lực lượng hùng hậu bao gồm 85 cảnh sát đi trên 13 chiếc xe hơi và 12 môtô. Người dân Mỹ vui mừng thở phào và chỉ chờ ngày Dillinger lên ghế điện.

Nhưng mọi chuyện chưa kết thúc ở đó. Ngày 3/3/1934, sử dụng một cây súng gỗ do luật sư Luis Pike lén trao từ trước, Dillinger đã dọa được viên cai ngục để lấy chìa khóa trốn ra ngoài. Trong lúc này, nhiều đồng bọn trong băng cướp của Dillinger cũng đã bị sa lưới. Riêng Pierpont phải kết thúc cuộc đời trên ghế điện, Mcley phải nhận một viên đạn vào lưng trong lúc chạy trốn, còn Clark phải ngồi tù cho đến hết đời.

Ngày 22/4, thanh tra Pervis nhận được thông báo, Dillinger và đồng bọn đang có mặt tại hồ Michigan (ngoại ô Chicago). Bốn chiếc xe bọc thép lợi dụng màn đêm bí mật bao vây một khách sạn nhỏ. Cảnh sát và các nhân viên FBI xiết chặt vòng vây xung quanh. Ngay khi xuất hiện 3 người đàn ông vừa bước ra khỏi bậc tam cấp, cả một lưới đạn dày đặc đã bao trùm lấy họ. Những xác chết sau đó hóa ra là ba người khách trọ xấu số của khách sạn tình cờ ra ngoài để hút thuốc. Những nạn nhân vô tội này được liệt vào danh sách “những kẻ bị săn lùng không cần khoan hồng”. Thật ra, trong thời gian cảnh sát khai hỏa có một tên cướp bị thương nặng là John Hamilton.

Bị săn lùng ráo riết, Dillinger quyết định phẫu thuật để thay đổi diện mạo. Giúp đỡ hắn là hai chuyên gia phẫu thuật từng có quá khứ tội phạm là Vilhelm Loser và Harold Cassidi với khoản tiền công 5.000 USD. Dillinger được hạ bớt mũi, nới rộng gò má và cằm. Vào đúng ngày sinh nhật lần thứ 31 của mình (22/6), Dillinger chính thức được các nhà chức trách tuyên bố là “kẻ thù số 1 của xã hội” cùng với khoản tiền thưởng cho ai diệt được hắn là 20 ngàn USD.

Trưa ngày 30/6, Dillinger cùng 3 tên đồng bọn khác lại tấn công Merchant's National Bank cướp đi 30 ngàn USD cùng với mạng sống của viên sĩ quan cảnh sát Howard Wagner. Nhưng đây là vụ “làm ăn” cuối cùng của băng Dillinger.

Ngày 22/7/1934, John Dillinger, cô bạn gái Hamilton và cả bà Sage (chủ nhà trọ) cùng rủ nhau đi xem bộ phim Manhattan Melodrama có Clark Gable thủ vai chính. Do đã quy ước sẵn, bà Sage mặc váy đỏ để cảnh sát dễ nhận ra. Khi bộ phim kết thúc vào lúc 21 giờ, cả ba cùng ra khỏi rạp. Khi bà Sage giả vờ đánh rơi chiếc găng tay rồi lùi lại để lấy, các nhân viên cảnh sát đồng loạt rút súng ra. Dillinger phát hiện ngay và bỏ chạy nhưng đã quá muộn. Bị 4 viên đạn găm vào ngực, John Dillinger chết ngay trên đường đến bệnh viện.

Ngay sau thành công này, thanh tra Melvin Pervis cùng các nhân viên của mình được mời đến Washington và được đích thân Edgar Hoover đón tiếp. Ngài giám đốc FBI đã phải thốt lên: “Nhân danh toàn bộ lực lượng cảnh sát nước Mỹ, tôi xin cảm ơn các bạn! Các bạn đã biết cách khôi phục lại danh dự cho chúng ta”.

Tính ra, John Dillinger đã tổ chức tổng cộng 56 vụ cướp khác nhau, bắn chết 10 người và làm bị thương 7 người khác. Tên cướp dã man này được chôn trong hầm mộ gia đình vào ngày 25/7/1934 tại nghĩa trang Crown Hill (Indianapolis). Có đến gần 5.000 người tới chứng kiến cảnh chôn cất này. Cả nước Mỹ thở phào nhẹ nhõm, đã loại ra được tên cướp ngang hàng với những tên tội phạm hàng đầu như Jaccy James và Al Capone bị lịch sử Mỹ nguyền rủa

https://hv2tconan.forumvi.com

55những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Tue Aug 03, 2010 7:41 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Bí ẩn về kẻ giết người kỳ lạ



Cuộc sống nghèo khổ và bất hạnh từ bé, lại thường xuyên phải chịu đựng những lời nói mỉa mai độc ác từ những người da trắng, Carlton đã nuôi dưỡng lòng thù ghét người da trắng và thể hiện những hành động giết người sau này.

Carlton Gary sinh năm 1952 tại Columbus, Georgia. Ngay từ nhỏ, hắn đã bị cha bỏ rơi. Người mẹ nghèo khổ của hắn thì sống nay đây mai đó, nên bà thường gửi Carlton cho những người bà con chăm sóc.

Tuổi thơ lạc lối

Lúc nhỏ, hắn từng bị buộc tội ăn trộm xe hơi và bị kết tội phóng hỏa một tiệm tạp hóa bằng bom xăng. Có lẽ là để trả thù ông chủ tiệm người da trắng, người đã có lần tố cáo mẹ hắn dùng ngân phiếu không tiền bảo chứng với cảnh sát. Bước vào tuổi trưởng thành, Carlton kết hôn với một phụ nữ đã có gia đình tên là Sheila. Không bao lâu sau đám cưới, Carlton lại phạm tội và bị bắt. Hắn vượt ngục và đến sống ở Connecticut.

Kể từ đó hắn sống lang thang dọc theo vùng duyên hải phía nam của tiểu bang tới Old Saybrook, New London, Hartford và Bridgeport. Ở Bridgeport, Carlton lần nữa gặp rắc rối với luật pháp. Hắn bị bắt vì tội hành hung một cảnh sát viên. Sau đó hắn vượt tiểu bang để tới Albani, New York. Ở Albani, Carlton bước vào nghề ca hát.

Những vụ án mạng kỳ lạ

Đầu năm 1970, người ta bắt đầu biết đến một vụ án kỳ lạ: Một gã đàn ông đã đột nhập và cưỡng hiếp, sau đó siết cổ cho tới chết một nữ giáo viên đã về hưu người da trắng tên là Nellie Farmer bằng một chiếc khăn quàng. Một thời gian ngắn sau, một người phụ nữ da trắng lớn tuổi khác tên là Josephine Deitz cũng bị một người đàn ông da đen tấn công tại nhà riêng.

Chỉ bốn ngày sau vụ tấn công bà Deitz, cảnh sát đã bắt giữ được Carlton Gary với tên giả là Carl Michaels. Dấu tay của hắn đã được tìm thấy trong căn phòng của bà Nellie Farmer. “Carl Michaels” thú nhận hắn đã có mặt trong nhà bà Farmer khi bà ta đã bị giết chết. Hắn khai là đã đột nhập vào nhà để ăn trộm trong khi tòng phạm của y đã tấn công và giết chết bà Farmer. Tên của người đàn ông này là John Lee Mitchell, hay được gọi là “Pop”.

Carl nói rằng cảnh sát đã không tìm được dấu tay của John Lee bởi vì hắn mang bao tay trong khi phạm tội. Carl còn đưa cho cảnh sát xem một lá thư mà hắn nói là do John Lee viết. Trong đó Lee nói về sự dính líu của hắn trong vụ hãm hiếp và giết chết bà Nellie Farmer. Cuối cùng, Carl Michaels đồng ý ra làm nhân chứng chống lại người bạn. Dựa phần lớn vào lời khai đó, John Lee bị kết tội.

Các cuộc điều tra được tiến hành sau đó đã làm nhà chức trách tin tưởng rằng John Lee đã không dính líu đến vụ giết chết bà Farmer. Dường như Carlton Gary đã thoát khỏi sự trừng phạt bằng cách làm cho người bạn bị ngờ vực và rốt cuộc không ai trong số hai tên này bị kết tội. Carlton Gary được thả khỏi tù năm 1975. Hắn đi đến Syracuse, New York.

Ngày 31/12/1976, một người đàn ông đột nhập vào nhà một phụ nữ 59 tuổi ở Syracuse, hãm hiếp dã man và rồi làm bà ngạt thở bằng một chiếc áo gối. Tuy nhiên, thật may mắn nạn nhân còn sống sót. Cảnh sát tin Carlton Gary là thủ phạm. Ngày 3/1/1976, một phụ nữ da trắng 55 tuổi tên Jean Frost cũng đã trở thành nạn nhân của Carlton, nhưng cũng may mắn là bà không chết. Ngày hôm sau, ngày 4/1, hai người đàn ông bị bắt tại một ngân hàng ở Syracuse trong khi họ đổi 191 USD tiền đồng xu sang tiền giấy. Các đồng tiền xu này bị lấy trộm từ một người đàn ông sống cùng chung cư với bà Jean Frost. Một trong hai người đàn ông bị bắt, Carlton Gary đã chống cự dữ dội. Cần sa đã được tìm thấy trên người của hắn, và cả chiếc đồng hồ bằng vàng của bà Jean Frost.

Hắn khai với cảnh sát tên hắn là Carlton Michaels. Carlton thú nhận đã đến chung cư nơi bà Jean Frost nhưng chỉ để trông chừng cho người bạn tòng phạm (người đàn ông bị bắt chung với hắn). Bà Frost đã không thể nhận diện “Carlton Michaels” là người đàn ông đã tấn công, hãm hiếp và cố giết chết bà. Không có chứng cứ trực tiếp nào để liên kết người đàn ông này với hiện trường phạm tội. Không ai bị kết tội trong vụ này. Tuy nhiên, bởi vì hắn bị bắt với các đồng tiền ăn cắp, nên bị tống trở lại vào tù. 8 tháng sau, ngày 22/8/1977, Carlton Gary đã trốn thoát khỏi nhà tù Onondaga và quay lại Columbus, Georgia, nơi sinh của hắn.

Tối 15/9/1977, bà Mary Willis Jackson, Giám đốc Trung tâm giáo dục thuộc Bộ Y Tế Columbus, một phụ nữ da trắng sống một mình trong căn nhà thuộc vùng Wynnton, phía nam Columbus, bị đánh thức bởi một kẻ lạ mặt đột nhập vào tận phòng ngủ. Xác bà Jackson được tìm thấy trên giường trong phòng ngủ, cùng với chiếc bít tất dài quấn quanh cổ, một chiếc gối úp lên mặt. Năm ngày trước vụ đó, một phụ nữ da trắng lớn tuổi khác sống trong cùng khu vực này đã bị tấn công. Nạn nhân bị thương rất nặng nhưng vẫn sống.

Với các bản tin liên tiếp về các vụ sát hại các phụ nữ lớn tuổi, người dân Columbus lâm vào tình trạng hoảng hốt. Nhiều người đã kêu thợ gắn thêm các ổ khóa cửa, mua súng để tự vệ. Sở Cảnh sát Columbus phải tăng cường hoạt động tối đa. Các trạm theo dõi được bố trí khắp khu vực Wynnton. Rất nhiều xe cảnh sát tuần tra liên tục khắp khu vực này. Nhiều cảnh sát chìm được bố trí nằm phục trong nhà của các cư dân lớn tuổi, những người được nghĩ rất có thể là nạn nhân kế tiếp.

Ngày 2/10/1977, Jerome Livas bị bắt vì tội hãm hiếp và đánh tới chết Beatrice Brier, 55 tuổi. Beatrice là bạn gái của Jerome và bà ta đã không sống ở khu vực Wynnton. Tuy nhiên, có những điểm tương tự như tuổi của nạn nhân, tính hung bạo của vụ án làm cảnh sát liên kết kẻ tình nghi này với các tội ác khác. Đến ngày 14/10/1977, họ chính thức tuyên bố rằng Jerome là kẻ tình nghi trong các vụ giết người mà nạn nhân bị siết cổ bằng những chiếc tất dài. Jerome Livas thú nhận đã giết chết Ferne Jackson và nhiều người phụ nữ da trắng khác.

Thành phố Columbus có thể thở phào nhẹ nhõm vì cơn ác mộng của họ đã qua. Người đàn ông làm họ sợ hãi đã bị bắt. Cảnh sát quyết định chấm dứt hoạt động theo dõi trong khu vực Wynnton.

Nhưng rồi vào một buổi chiều, một kẻ lạ mặt đã đột nhập vào nhà bà cụ Florence Sheible, đẩy bà cụ lên giường. Sau đó hắn hãm hiếp và giết chết bà cụ này bằng cách quấn một chiếc tất dài quanh cổ. Cư dân của thành phố Columbus lại bắt đầu sống trong nỗi lo sợ thường trực. Tên sát nhân vẫn sống tự do và đang tiếp tục gieo rắc kinh hoàng.

Jerome Livas đã có một bằng chứng ngoại phạm vững chắc nhất: hắn đang bị tù. Hóa ra Jerome Livas là một trong những phạm nhân rất sẵn lòng để thú nhận bất cứ điều gì. Có lẽ Jerome nghĩ hắn chẳng có gì để mất. Hoặc có lẽ hắn muốn có được sự chú ý bởi thú nhận phạm những tội ác của kẻ khác. Song, Jerome vẫn bị tù vì là một kẻ tình nghi trong vụ hãm hiếp và giết chết Beatrice Brier.

Một nhóm đặc nhiệm đã được thành lập để truy tìm tên giết người nguy hiểm. Chỉ huy nhóm đặc nhiệm này là Phó tư lệnh cảnh sát James B. Hicks và Đội trưởng Đội thám tử Ronald Lynn.

Tương tự nhiều phụ nữ khác, bà Ruth Schwob sống trong căn nhà được trang bị một hệ thống báo động rất thô sơ, với một công tắc được gắn ngay đầu giường ngủ. Chiếc nút này nối vào một sợi dây điện, chúng sẽ làm chuông điện kêu vang trong phòng ngủ của người hàng xóm ở ngay bên cạnh. Vào một buổi tối trời rất lạnh ngày 11/2/1978, bà Ruth Schwob bị một người da đen tấn công trên giường ngủ. Người phụ nữ lớn tuổi này đã mau lẹ bấm nút báo động. Các thám tử đã đến nhà bà Ruth Schwob chỉ hai phút sau được báo. Khi Ronald Lynn và đồng sự, cảnh sát viên Robert Mathews, đến nơi, tên tội phạm đã trốn mất, may là bà Schwob vẫn còn sống. Chỉ 24 tiếng sau, tên tội phạm kia đã tấn công, giết chết bà cụ Mildred Dismukes Borom, 78 tuổi bằng đoạn dây từ rèm cửa sổ trong nhà. Cả thành phố Columbus cảm thấy như thể đang bị "vây hãm". Cảnh sát dường như bất lực.

Trong tháng 2/1978, cảnh sát trưởng Columbus đã nhận được một lá thư gửi từ nhóm kỳ thị da trắng “Forces of Evil”, một nhóm tự xem có nhiệm vụ ngăn chặn tội phạm. Forces of Evil ra tối hậu thư rằng nếu đến ngày 1/6/1978, cảnh sát không bắt được kẻ thủ ác kia, họ sẽ giết chết một phụ nữ da đen để trả đũa cho những người phụ nữ da trắng bị giết trước đó. Theo bức thư thì người đàn bà da đen đó là Gail Jackson, đang sống gần Fort Benning. Và điều lo sợ là bà ta đang mất tích. Trong khi vẫn đang bối rối, cảnh sát nhận thêm một lá thư thứ hai từ nhóm “Forces of Evil”. Chúng đòi hỏi số tiền 10.000 USD để chuộc sự tự do cho người phụ nữ bị bắt cóc này.

Cảnh sát Columbus đã chuyển các bức thư này cho FBI, và cơ quan này đưa ra kết luận hết sức ngạc nhiên rằng tác giả của các bức thư Forces of Evil rất có thể là một người... da đen. FBI tin rằng có lẽ hắn đã giết chết Gail Jackson và các lá thư này nhằm đánh lạc hướng sự chú ý tới kẻ giết người thật sự. Họ suy đoán tên giết người này là một cựu quân nhân.

Cuối cùng, cảnh sát đã bắt William Hance về tội giết chết Gail Jackson. Hắn là một lính pháo binh trong trại Fort Benning. Hắn thú nhận là tác giả của hai bức thư “Forces of Evil” và đã giết chết hai phụ nữ khác ngoài Gail Jackson. Tuy nhiên không có sự liên kết nào giữa William Hance và các vụ giết người do siết cổ bằng bít tất dài.

Sa lưới

Trong thời gian xảy ra các vụ giết người, một công dân ở Wynton đã bị đánh cắp một khẩu súng Luger 22. Một người nặc danh đã gọi điện thoại cho chủ nhân của khẩu súng nói rằng: “Cảnh sát đã có khẩu súng mà bạn ăn cắp của họ". Người chủ khẩu súng liền báo cho Cảnh sát Columbus biết về cú điện thoại này. Thoạt tiên, họ rất bối rối, bởi không có khẩu súng đó - nhưng có thể cảnh sát ở khu vực khác có nó? Cuối cùng, các thám tử đã tìm ra chủ nhân của khẩu súng này, và anh ta cho biết đã mua nó ở Phoenix City, Alabama từ Jim Gary. Cảnh sát thẩm vấn Jim Gary, gã khai được tặng khẩu súng này bởi người anh họ, Carlton Gary.

Các thám tử sau đó khám phá Carlton mới trốn thoát khỏi nhà tù South Carolina, nơi hắn đang thụ án với cái tên Michael David. Điều này đã làm công việc của cảnh sát thêm khẩn cấp hơn. Có thể Carlton chính là kẻ chuyên giết người bằng bít tất dài, và đe dọa tính mạng nhiều phụ nữ lớn tuổi. Các dấu tay của Carlton Gary giống với các dấu tay được tìm thấy trong căn nhà của nạn nhân Kathleen Gary. Và rồi, Cảnh sát Columbus được các nhà điều tra từ Phoenix City thông báo họ đang tìm kiếm các kẻ tình nghi ăn cướp và bán ma túy, một trong những người này được biết là Michael David.

Sáng sớm ngày 3/5/1984, một nhóm cảnh sát đặc biệt S.W.A.T đã được gửi đến nhà trọ Holiday Inn ở Albani, Georgia, nơi Carlton Gary đang có mặt với một phụ nữ. Khi bước ra khỏi phòng để lấy đồ uống, các thành viên S.W.A.T đã mời người đàn bà này vào một phòng riêng để thẩm vấn. Bà ta đồng ý hợp tác với cảnh sát và cho họ biết Carlton có một khẩu súng để ở đầu giường. Để dụ Carlton mở cửa, đội S.W.A.T đã xông vào căn phòng bắt hắn.

Theo bài bản cũ, Carlton thú nhận có mặt trong nhà của các nạn nhân ở Wynnton, nhưng lại một mực nói đã không hãm hiếp hoặc giết chết họ. Kẻ tòng phạm của hắn, Malvin Alamichael Crittendon đã làm việc này. Cảnh sát tìm thấy Crittendon. Hắn phủ nhận không dính líu đến các vụ giết người bằng cách siết cổ bằng bít tất dài, và cảnh sát cũng không thể tìm các chứng cứ liên kết hắn với các vụ giết người này.

Carlton Gary bị đưa ra xét xử trong tháng 8/1986, về các tội giết người ghê gớm nhất, đúng 9 năm sau vụ giết người cuối cùng mà hắn đã phạm. Carlton Gary được luật sư August Bud Siemon III, một luật sư chuyên bào chữa trong các vụ trọng án bào chữa. Bà Jean Frost 64 tuổi đã ra tòa làm chứng. Khi 55 tuổi, bà bị cướp, đánh đập, hãm hiếp hết sức dã man, bị siết cổ và bỏ mặc cho chết từ từ. Kế tiếp một thám tử, trình bày các dấu tay của Carlton được tìm thấy trong căn nhà của bà Frost như thế nào. Carlton Gary bị cáo buộc tất cả 9 tội danh, bị kết án tử hình. Hắn đã kháng án nhiều lần nhưng bản án đã được thi hành. Vụ án Carlton Gary cho đến nay vẫn được biết đến như vụ án kỳ lạ nhất nước Mỹ

https://hv2tconan.forumvi.com

56những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Tue Aug 03, 2010 7:41 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Richard Speck và cuộc thảm sát 8 nữ y tá thực tập



Sáng thứ bảy ngày 14/7/1966, người dân sống trên đường 100 khu Đông ở Nam Chicago giật mình thức giấc vì tiếng kêu thét của phụ nữ. Mọi người chạy ra ngoài đường và kinh hoàng khi nhìn thấy một phụ nữ trẻ đứng trên gờ tường tầng hai tòa nhà, hét lên kinh hoàng: "Cứu tôi! Họ chết rồi... Trời ơi.. hắn đã giết chết họ rồi!".

Viên cảnh sát Daniel R.Kelly thuộc đồn cảnh sát quận phía nam có mặt sau đó ít phút. Vừa lớn tiếng trấn an để cô gái không lao xuống đường, Kelly xông vào ngôi nhà... Anh kinh hoàng khi nhìn thấy ngay bên trái cửa ra vào là xác một phụ nữ trần truồng nằm trên giường. Lên hết cầu thang, Kelly giật mình phát hiện thêm hai bàn chân ló ra ngoài một căn phòng. Khi tiến đến ô cửa, Kelly nhìn thấy một cảnh tượng hãi hùng: một cô gái trần nửa người, có thể thấy rõ các vết chém trên cổ và ngực. Nhìn vào căn phòng tắm, cách xác cô gái thứ hai, Kelly phát hiện thêm 3 xác phụ nữ: các cổ tay họ đều bị trói chặt và cổ họng bị cắt đứt. Theo từng bước đi, quang cảnh hiện ra trước mắt viên cảnh sát là ngoài sức tưởng tượng. Kelly đã phục vụ trong ngành được 18 tháng, nhưng chưa bao giờ chứng kiến vụ thảm sát dã man như thế này.

Súng cầm trong tay, Kelly tiếp tục bước lên tầng hai, đi vào căn phòng tắm thứ hai anh lại nhìn thấy thêm 3 xác nữa. Lần ra bờ tường tầng 2, Kelly rất khó khăn mới có thể dìu cô gái đang hoảng loạn tột độ vào trong nhà.

Chưa đầy 1 giờ sau khi phát hiện ra án mạng, Cảnh sát trưởng Chicago, Francis Flanagan, bắt đầu thẩm vấn nhân chứng duy nhất còn sống sót - cô Corazon Piezo Amurao, 23 tuổi. Bằng giọng nấc nghẹn, Corazon cho biết: cô và các nạn nhân của vụ thảm sát sống chung trong căn nhà và họ đều là y tá thực tập ở bệnh viện Nam Chicago.

Thảm kịch xảy ra vào đêm hôm trước khi cô nghe thấy tiếng gõ cửa. Mở cửa, Corazon nhìn thấy một gã thanh niên khoảng hơn 20 tuổi, tóc cắt ngắn, mặc đồ vest màu tối. Cánh cửa vừa mở, gã thanh niên rút súng và đẩy dúi cô vào nhà. Hai cô bạn chung phòng với Corazon, Merlita Gargullo, 22 tuổi và Valentina Pasion, 23 tuổi, chạy đến cũng bị hắn dùng súng uy hiếp. Hắn ta ra lệnh cho các cô gái đi đến buồng ngủ phía sau nhà. Tại đây, hắn phát hiện 3 cô gái đang nằm ngủ. Đó là Nina Jo Schmale 21 tuổi, Pamela Wilkening 24 tuổi và Patricia Ann Matusek, 20 tuổi.

Gã thanh niên gằn giọng buộc các cô đưa hết tiền cho hắn. Từng người một làm theo lời hắn. Bất ngờ, cô gái 19 tuổi Gloria Jean Davy bước vào phòng cũng bị gã uy hiếp. Sau đó, hắn ta xé vải giường ra thành nhiều mảnh và cột chân tay các cô gái lại. Lát sau, Suzanne Farris, 21 tuổi và Mary Ann Jordan, 20 tuổi đi vào phòng. Nhìn thấy cảnh tượng trước mắt, họ sợ hãi lao ra hành lang, nhưng gã ta đuổi kịp và đẩy họ vào căn phòng khác. Sau đó gã đàn ông bắt đầu buộc từng cô gái đi đến những nơi khác nhau rồi ra tay sát hại họ. Biết rằng sẽ đến lượt mình sau khi đã hạ sát các cô gái kia, Corazon mau chóng chui xuống gầm giường để trốn. Còn Gloria Davy bị hắn lột trần và cưỡng hiếp trước khi giết chết. Corazon nấp dưới gầm giường suốt nhiều giờ trước khi thu hết can đảm leo ra gờ tường ngoài nhà và kêu thét cầu cứu.

Sau khi dựng lại các sự kiện đã xảy ra, Flanagan lập tức tiến hành điều tra nhân thân kẻ giết người máu lạnh này. Không bao lâu sau, chân dung phác họa của hung thủ đã hiện ra - đó là một người tên Richard Speck, sống ở Dallas, Texas. Người cha kế của Speck nghiện rượu và thường trút những cơn giận dữ lên 8 anh chị em Speck. Để trả đũa, Speck bỏ học nửa chừng và bắt đầu sống bụi đời. .

Từ đó, hắn liên tục vào tù ra khám vì các tội trộm cướp và tấn công người khác. Tháng 1/1966, Speck lại phạm tội trộm cắp và đánh người. Tuy nhiên hắn đã nhanh chân chạy trốn khỏi khu vực và lẩn trốn ở Chicago. Tại đây hắn làm nghề mộc và thường xuyên la cà trong các quán rượu.

Ngày 13/4/1966, người ta phát hiện Mary Kay, cô hầu bàn quán rượu Franko's Place, chết phía sau quán. 5 ngày sau, cụ già Virgil Harris 65 tuổi bị siết cổ chết tại nhà mình. Speck nằm trong diện tình nghi của cảnh sát, nhưng hắn đã biến mất khỏi khu vực.

Tháng 7/1966, 3 cô gái ở Indiana mất tích. Thời gian đó Speck làm việc trên con tàu neo tại cảng địa phương.

Biết rằng, sẽ không thể trốn tránh lưới pháp luật, hắn quyết định tự sát tại phòng hắn thuê ở khách sạn Starr. Sau khi nốc rượu, hắn đập vỡ chai và dùng mảnh thủy tinh cắt cổ tay. Nhưng sau đó nghĩ lại, hắn liền tìm người cầu cứu và được đưa ngay đến bệnh viện Cook County. Leroy Smith, người chăm sóc vết thương cho Speck, bất chợt phát hiện hắn ta trông giống với ảnh kẻ tình nghi đã giết chết các nữ y tá đăng trên báo, anh liền gọi cảnh sát và vài phút sau hắn ta bị bắt.

Phiên tòa xử Speck bắt đầu từ ngày 3/4/1967. 12 ngày sau, Richard Speck bị quy tội giết 8 nữ y tá và bị tuyên án tử hình. Năm 1972, Speck thoát chết khi Tòa án tối cao Mỹ hủy bỏ án tử hình. Ngày 5/12/1991, Richard Speck chết do bệnh tim sau khi thụ án được 19 năm

https://hv2tconan.forumvi.com

57những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Tue Aug 03, 2010 7:42 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Cái chết bí ẩn của người thừa kế đế chế tài chính lớn nhất thế giới



Ngày 18/11/1961 Michael Rockfeller - người thừa kế một trong những đế chế tài chính lớn nhất thế giới, con trai Thống đốc bang New York Nelson Rockfeller, đã bị mất tích không dấu vết trong vùng rừng rậm tại bờ biển New Guinea. Bí ẩn quanh sự biến mất của ông cho đến nay vẫn chưa được làm sáng tỏ.

Các nhà nghiên cứu Nga mới quay về cách đây không lâu từ vùng đó, đã đi đến một kết luận gây chấn động: những người thổ dân đã được Rockfeller “lập trình” để lấy được đầu ông như một chiến lợi phẩm kỳ bí.

Trước đó, ít ai biết đến sự tồn tại của những người Asmat - một bộ lạc bé nhỏ sống ở bờ phía nam của New Guinea. Cuộc thám hiểm dưới sự chỉ đạo của Rockfeller đã tiến hành thu thập các tư liệu dân tộc học về nghệ thuật tiền sử cho Viện Bảo tàng New York mà ông là một nhà sáng lập. Đã có nhiều giả thiết về sự ra đi bí ẩn của ông. 43 năm sau, một đoàn thám hiểm của Nga, do Oleg Aliev đứng đầu, đã lên đường đến khu vực hiểm hóc này. Các thành viên của đoàn đã phải sống vài tuần cùng người Asmat và tìm cách dựng lại những ngày cuối cùng của Rockfeller.

Chuyến đi biển cuối cùng

... Con thuyền 2 thân với 4 hành khách từ thành phố Agats bơi đến làng Atsi. 2 trong số họ là người da trắng: Michael Rockfeller, 23 tuổi và bạn đồng hành người Hà Lan Rene Wassing. 2 người còn lại, Leo và Simon là dân địa phương, được thuê làm người dẫn đường. Suốt 2 tháng, các nhà nghiên cứu lăn lộn ở các làng quanh vùng và đổi rìu sắt, thuốc lá, lưỡi câu cá để lấy những đồ vật hiếm bằng gỗ, đặc trưng cho văn hóa của người Asmat.

Biển khi đó không yên tĩnh, và những nhà du hành không gặp khó khăn để giữ thăng bằng cho thuyền. Song, sau đó sóng trở nên mạnh hơn. Động cơ của thuyền tỏ ra quá yếu và con thuyền nhỏ bị kéo xa dần ra biển rộng, cách bờ hơn 3km. Bỗng nhiên sóng đập mạnh vào mũi và thân thuyền làm động cơ im bặt. Thuyền bắt đầu chìm, còn những con sóng cao như sắp lật úp nó.

Cả Michael và Rene đều không vội rời thuyền, vì trên đó có tất cả lượng dự trữ thực phẩm, hàng hóa để trao đổi với dân địa phương và máy quay phim. Khi đó họ quyết định cho Leo và Simon đi tìm sự hỗ trợ.

Còn Michael và Rene chỉ còn việc phải chờ đợi. Khi trời hửng sáng, trước mắt họ vẫn còn thấy rõ bờ biển. Khi đó Rockfeller quyết định bơi vào đất liền, vì cho rằng đó là cơ hội cuối cùng để thoát hiểm. Michael bơi sải rất tốt, còn Rene là người bơi xoàng, do đó anh định phản đối kế hoạch này. Theo Rena dòng chảy gần bờ rất mạnh, nên Michael không thể thoát hiểm, cho dù có thể đến rất gần bờ. Nhưng Michael đã không chịu nghe theo và nhảy xuống nước.

Một lúc sau Michael đã mất dạng. Còn chiếc thuyền gặp nạn đến chiều ngày hôm đó được một chiếc thủy phi cơ của Hải quân Hà Lan phát hiện ra. Michael mất tích mà không để lại dấu vết gì. Không đến một ngày đêm sau cha của anh, ông Nelson đã đến đảo New Guinea trên một chiếc máy bay phản lực. Lực lượng không quân Australia đã cấp cả máy bay trực thăng để tham gia tìm kiếm. Những chiếc tàu tuần tra, canô của các nhà truyền giáo và những chiếc thuyền nhỏ của thổ dân cũng rà soát khắp nơi, nhưng tất cả đều không có kết quả. 10 ngày sau, ông Nelson đành quay lại New York mà không biết gì hơn về con trai mình.

Kẻ khiêu khích thổ dân

Điều gì đã xảy ra với Michael? Anh bị chìm vì không chống chọi nổi với dòng chảy, hay trở thành mồi cho cá mập và cá sấu, hoặc có thể anh đã bị những người Asmat bắt và ăn thịt?

Nhóm các nhà nghiên cứu Nga đã tìm thấy những tài liệu trong kho lưu trữ địa phương, trong đó một quan chức Hà Lan nhận định rằng, sự có mặt của Michael trong vùng đã kích thích việc săn đầu người phát triển. Đại diện của các làng khác nhau đã đến tỉnh trưởng với yêu cầu cho phép họ săn người. Michael đã đưa ra trước họ một phần thưởng chưa từng có: 10 chiếc rìu sắt cho một đầu người. Trước đó để có được cô dâu người ta chỉ cho 1 rìu sắt.

Có thể những người dân địa phương đã nảy sinh ý nghĩ là nếu may mắn lấy được đầu Michael và dùng nó để trang trí ngôi nhà của trưởng tộc, các chiến binh của làng sẽ có được sức mạnh chưa từng có và chiến thắng tất cả kẻ thù. Michael đã không thận trọng đến mức nói cho người Asmat tên của mình. Điều đó đặc biệt nguy hiểm, bởi theo quan niệm của người Asmat, chiếc đầu bị chặt có sức mạnh huyền bí chỉ trong trường hợp nếu biết rõ tên người chết.

Tin đồn về câu chuyện bi thảm của Rockfeller được lan truyền khắp nơi. Năm 1964, những người chạy khỏi đất của người Asmat đã khẳng định rằng người Asmat dường như đều nghĩ rằng Michael đã bị các chiến binh Otszanep giết, “nấu lên và ăn thịt”. Có lẽ đầu của Michael đã mang đến cho làng sức mạnh vĩ đại và đánh tan sự sợ hãi trước sự xâm lăng của các chiến binh làng khác.

Thật không khó để suy đoán rằng sức quyến rũ lấy đầu Michael như một chiến lợi phẩm là quá lớn. Có vẻ người ta đã quyết định không để đầu của Michael trong làng mà giấu ở một nơi bí mật trong đầm lầy

https://hv2tconan.forumvi.com

58những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Tue Aug 03, 2010 7:43 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Mossad có dính líu tới vụ ám sát Tổng thống Kennedy?



Đã hơn 40 năm sau vụ ám sát Tổng thống Kennedy, người ta vẫn chưa thể đưa ra lời đáp trước câu hỏi: Ai thực sự đứng đằng sau thủ phạm Lee Harvey Oswald? Liệu hắn ta có phải là kẻ duy nhất đứng ra thực hiện vụ ám sát trên? Mới đây, vụ ám sát trên lại có thêm một đối tượng tình nghi nữa - đó là Cơ quan Tình báo Israel...

Thật ra chưa ai có thể làm rõ, các cơ quan mật vụ Mỹ và nước ngoài đóng vai trò gì trong vụ ám sát Tổng thống Kennedy. Người ta chỉ biết một điều: chính sách của John Kennedy - với mục đích hạn chế lợi nhuận của các tập đoàn dầu mỏ và giải tán CIA - đã khiến nhiều kẻ trong nước cũng như ở nước ngoài phải tức tối.

Vấn đề này đã gây nên sự quan tâm đặc biệt của nhà nghiên cứu người Mỹ Michael Piper, người vừa cho công bố cuốn sách “Final Judjment” (Phán quyết cuối cùng). Trong đó, tác giả khẳng định, vụ ám sát Tổng thống Kennedy có sự dính líu của CIA và Cơ quan Tình báo Israel (Mossad). Cuốn sách với số phát hành 30 ngàn cuốn này ngay lập tức bị truy thu hết theo yêu cầu của Hiệp hội chống phỉ báng người Do Thái, khiến không ai có thể tìm mua được nữa.

Piper đã kịp đưa lên Internet một bài báo kể về nội dung cuốn sách của mình. Tác giả nhận xét rằng, “lòng khoan dung” của Nhà Trắng đối với chương trình hạt nhân của Israel không phải có ngay từ thời điểm ban đầu. Ví dụ như Tổng thống Kennedy rất không hài lòng trước việc Tel-Aviv đã chế tạo được vũ khí hạt nhân của mình bằng cách sử dụng lò phản ứng hạt nhân của người Pháp với các vật liệu phân rã lấy cắp từ Mỹ. John Kennedy cho rằng, Israel có thể lôi kéo cả thế giới vào một cuộc xung đột hạt nhân mà hậu quả không thể lường trước được.


John Kennedy đã rơi vào tầm ngắm của Mossad vì những nỗ lực ngăn chặn chương trình hạt nhân của Israel?

Thời điểm bài báo này được đưa lên mạng Internet gần như trùng với việc nhà vật lý Israel Mordechai Vanunu được trả tự do sau 18 năm bị giam cầm. Nhà bác học này đã từng có thời gian làm việc tại Trung tâm hạt nhân của Israel tại Dimon, trước khi bí mật trao cho báo chí Anh một số lượng lớn các bức ảnh cùng với tài liệu kỹ thuật - thực chất là bằng chứng không thể bác bỏ về việc Israel đang sở hữu vũ khí hạt nhân, kể cả bom neutron. Hiện tại, tiềm năng hạt nhân của Israel theo ước tính có từ 150 đến 200 đầu đạn, trong đó có các tên lửa có khả năng tiêu diệt các mục tiêu ở tận Tây Âu.

Trên cơ sở các điều tra riêng của mình để viết cuốn “Final Judjment”, Michael Piper đã đưa ra kết luận về sự dính líu của Mossad vào vụ ám sát Tổng thống Kennedy. Nguyên nhân chính giải thích cho sự quan tâm của Tel-Aviv đối với việc loại bỏ Kennedy xuất phát từ quyết tâm của ông chủ Nhà Trắng là bằng mọi giá phải ngăn chặn những tham vọng hạt nhân của Israel. Theo dữ liệu của nhà nghiên cứu Mỹ, mâu thuẫn giữa Mỹ và Israel trong vấn đề này đã lên tới đỉnh điểm vào giữa năm 1963.

Vào thời điểm đó, tình báo Israel nhận được thông tin cho rằng, John Kennedy đã chỉ thị cho Đại sứ Mỹ tại Tel-Aviv vào ngày 16/6/1963 phải tới gặp Thủ tướng Israel David Ben-Gurion, trao cho ông ta một công hàm riêng với yêu cầu cấp thiết phải cho phép các thanh tra người Mỹ tới trung tâm hạt nhân tại Dimon. Phía Mỹ cần có những bằng chứng thuyết phục chứng tỏ chương trình hạt nhân của Israel chỉ vì mục đích hòa bình. Trong trường hợp ngược lại, Mỹ sẽ từ bỏ chính sách “bảo trợ” Israel trên trường quốc tế.

Tuy nhiên vào đúng ngày 16/6 đó, Ben-Gurion bất ngờ xin từ chức. Kennedy lại trao tiếp cho người kế nhiệm Levi Escola bức thông điệp thứ hai với nội dung còn gay gắt hơn. Tổng thống mới của Israel đã đánh giá đây “không còn mang tính chất là thông điệp ngoại giao và nó đã xúc phạm đến chủ quyền quốc gia của đất nước ông”. Nội các Israel ngay sau đó đã triệu tập một phiên họp khẩn cấp, đưa ra đề nghị tổ chức tại Washington một cuộc gặp gỡ bí mật của phái đoàn hai nước nhằm bàn bạc những vấn đề mới nảy sinh trong quan hệ song phương Mỹ-Israel.

Cuộc gặp gỡ này trên thực tế đã diễn ra vào hai ngày 14 và 15/11/1963. Tuy nhiên, cả hai phái đoàn Mỹ và Israel đều không mạo hiểm đưa ra ngay chủ đề chương trình hạt nhân của Israel, mà thỏa thuận sẽ quay trở lại vấn đề này vào một thời điểm muộn hơn. Nhưng bước phát triển tiếp theo của vấn đề trên trong quan hệ Israel - Mỹ đã không xảy ra: ngày 22/11/1963, tức là chỉ vài ngày sau, John Kennedy bị sát hại.

Ông chủ mới Lyndon Johnson của Nhà Trắng hầu như không đả động gì đến chủ đề gây căng thẳng này nữa. Từ thời điểm đó, theo như tờ “Haarez” của Israel bình luận, “áp lực nặng nề của chính quyền Washington lên Tel-Aviv nhằm loại bỏ chương trình hạt nhân đã chấm dứt vĩnh viễn”.

Liên quan đến Lyndon Johnson, ngay sau khi lên nắm chiếc ghế tổng thống, ông ta đã chỉ thị cho FBI phải chấm dứt ngay việc điều tra đối với Công ty NUMEC được Mossad dựng lên tại Mỹ từ năm 1959. NUMEC đã từng vận chuyển trái phép về Israel khoảng 280 kg uranium làm giàu, được lấy cắp từ các kho quân sự của Mỹ. Nguyên nhân mất mát này, theo Ủy ban Năng lượng nguyên tử Mỹ giải thích với sự “gợi ý” của Nhà Trắng là do “việc kiểm kê và lưu giữ cẩu thả các vật liệu phân rã”. Ngoài ra, Johnson cũng chỉ thị chấm dứt ngay việc điều tra được khởi xướng từ thời Kennedy về hoạt động trên lãnh thổ Mỹ của một công ty bình phong khác cũng do Mossad dựng lên có tên Permindex. Công ty này có trụ sở chính tại Rome, chuyên tổ chức vận chuyển trái phép về Israel các vũ khí thông thường cũng như nguyên liệu phân rã. Cần nói thêm: cổ đông chính của công ty này là Giám đốc Ngân hàng tại Genève “Banque De Credit International” - Tibor Rosenbaum, một cựu nhân viên Mossad. Còn Giám đốc điều hành của Permindex là một người Canada có tên Louis Bloomfield - một nhân vật chủ chốt trong cộng đồng Do Thái tại Mỹ và Canada và là đại diện quyền lợi cho phe cánh Bronfmans tại các hành lang quyền lực của Washington.

Cũng theo Piper, trong hội đồng giám đốc của Permindex còn có điệp viên hai mang của cả CIA và Mossad là Clay Shaw. Cùng với hai điệp viên khác của CIA - David Ferry và Gee Banister - anh ta là một trong những nhân vật chủ chốt cùng hợp tác với công tố viên Jim Harrison, người đảm trách điều tra về vụ sát hại Tổng thống Kennedy.

Michael Piper nhận định, bằng chứng trực tiếp duy nhất về sự dính líu của Mossad trong việc sát hại Kennedy chính là những lời khai của cựu điệp viên CIA Marita Lorenz. Bà ta cho biết là cựu cấp trên của mình tại CIA là Frank Sturgis đã thừa nhận tham gia vào vụ sát hại Kennedy. Sturgis trong thời gian cuộc chiến năm 1948 từng là một sĩ quan trong quân đội Israel. Khi chuyển sang Mỹ, anh ta đã rất tích cực tham gia vào việc xây dựng một tổ chức khủng bố chống Cuba có tên “Lữ đoàn chống Cộng sản quốc tế” tại Miami. Trong nhiệm vụ này, Sturgis có được sự giúp đỡ rất tích cực của Phó giám đốc Mossad là Yehood Shipper.

Trong khi trò chuyện với tác giả cuốn sách, đại diện cao cấp của lữ đoàn khủng bố trên là Jerry Hemming đã thừa nhận, các điệp viên Mossad tại Miami đã biết về kế hoạch ám sát Kennedy từ lâu trước khi nó xảy ra, cho dù họ không tham gia trực tiếp vào vụ này. Đáng ra, tình báo Israel có thể đứng ra cảnh báo Kennedy về âm mưu trên, tương tự như họ đã làm đối với Tổng thống Pháp Charles de Gaulle. Cần nhớ lại là Mossad đã từng thông báo cụ thể về một âm mưu sát hại De Gaulle và giúp phản gián Pháp chặn đứng được vụ trên. Hành động trên đã khiến Tổng thống Pháp thay đổi quyết định, không cấm các chuyên gia Pháp giúp đỡ Israel trong các chương trình hạt nhân nữa.

Cũng không thể loại trừ khả năng, chính Mossad đã đứng ra trực tiếp tổ chức vụ sát hại Tổng thống Kennedy. Về giả thuyết này, nhiều người vẫn còn nhớ về nhận định của bình luận viên nổi tiếng Walter Cronkite của kênh truyền hình CBS: “Không có một tổ chức nào khác ngoài Mossad lại có khả năng xóa dấu vết một cách hiệu quả và giữ được bí mật về vụ ám sát Kennedy lâu đến như vậy!”

https://hv2tconan.forumvi.com

59những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Tue Aug 03, 2010 7:43 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Bắt giữ tên tội phạm nguy hiểm sau 50 năm lẩn trốn



Sớm ngày 29/1/2005, cư dân khu East Ryde của thành phố Columbia thuộc bang Nam Carolina, Mỹ, xôn xao khi thấy cảnh sát bao vây ngôi nhà của Gerald Mason, 70 tuổi, một doanh nhân thành đạt đã nghỉ hưu. Khi thấy cảnh sát xuất hiện ở cửa chính căn nhà của mình, Gerald Mason biết chuyện gì xảy ra và bình thản nói : “Tôi chính là người các ông cần tìm”.

Cách đây 50 năm, vào năm 1955, Gerald Mason là một thanh niên vai u thịt bắp trôi dạt từ bang Nam Carolina đến tận thành phố El Segundo bang California, để hành nghề đánh cá thuê. Tối ngày 21/3/1955, sau khi quay về thành phố El Segundo sau một chuyến đánh bắt cá xa bờ dài ngày, Mason đến ăn chơi xả láng tại một quán rượu nằm sát bờ biển. Đến 22h, sau khi đã say sưa, Mason cuốc bộ dọc theo bờ biển và bắt gặp hai cô gái trẻ đang chuyện trò trên chiếc xe hơi hiệu Ford Sedan sản xuất năm 1949. Lập tức thú tính trong người Mason nổi lên khiến hắn ta sử dụng khẩu súng ngắn nòng 7,35 mm hiệu Colt để khống chế rồi cưỡng hiếp một trong hai cô gái trẻ. Sau đó hắn ta cướp luôn chiếc Ford Sedan. Nghe tiếng la thất thanh của hai cô gái trẻ, nhiều người chạy đến xem chuyện gì xảy ra rồi liền cấp báo cho cảnh sát.

Vào lúc 22h45’ khi đang tuần tra bằng xe trên một con đường phía bắc thành phố El Segundo, hai nhân viên cảnh sát Milton Curtis và Richard Philipps phát hiện một chiếc xe Ford Sedan vượt đèn đỏ nên liền rượt theo để kiểm tra. Thế nhưng khi hai nhân viên cảnh sát buộc được chiếc xe phạm luật dừng lại và để kiểm tra thì bị người điều khiển xe dùng súng bắn thẳng nhiều phát vào người khiến cả hai nhân viên cảnh sát chết ngay tại chỗ. Sau khi ra tay, hung thủ bỏ lại chiếc xe Ford Sedan tại hiện trường rồi bỏ trốn.

Xác định chính kẻ đã giết hại hai nhân viên cảnh sát Milton Curtis và Richard Philipps và kẻ đã thực hiện hành vi cưỡng hiếp và cướp xe vào tối ngày 21/3/1955 là một, nên cảnh sát liền phác thảo chân dung của tên tội phạm (qua lời kể của hai cô gái trẻ) và phát lệnh truy nã. Kiểm tra chiếc Ford Sedan, cảnh sát còn thu lượm thêm hai mẫu dấu vân tay mà cảnh sát cho rằng đó chính là vân tay của thủ phạm. Nhưng khi kiểm tra 2.100 dấu vân tay mà vẫn không có kết quả. Ba năm sau, năm 1958, cảnh sát tìm thấy khẩu súng Colt nòng 22 mm, mà qua thẩm tra được xác định đó chính là khẩu súng được thủ phạm sử dụng để gây án.

Lần theo dấu vết của khẩu súng, cảnh sát biết rằng nó đã được bán tại một cửa hàng của hệ thống siêu thị Sears ở thành phố Los Angeles vào tháng 12/1954 và người mua đã sử dụng tên giả. Không nản chí, cảnh sát thành phố El Segundo quyết tâm phải bắt cho bằng được kẻ đã nhẫn tâm sát hại hai đồng đội của họ.

Trong khi đó tên tội phạm Gerald Mason, sau khi gây án tại thành phố El Segundo, đã trốn về thành phố Columbia Nam Carolina sinh sống. Đến tháng 10/1956, Mason bị cảnh sát thành phố Columbia bắt giữ về tội trộm cắp. Sau khi được trả tự do, Mason hoàn lương và bắt đầu làm ăn lương thiện bằng chính sức lực của mình. Năm 1960, sau một thời gian lao động cật lực, Mason tích lũy được một số vốn rồi bỏ tiền mua lại một trạm bán xăng. Công việc kinh doanh cứ tiến triển dần để đến cuối thập niên 1980, Mason đã là một doanh nhân thành đạt, sở hữu trong tay một hệ thống gồm 18 trạm bán xăng và rửa xe trải dài khắp bang Nam Carolina. Bạn bè và đồng nghiệp nhận xét rằng Mason không những là một doanh nhân giỏi mà còn là người luôn đối xử tốt với mọi người. Vào giữa thập niên 1990, Mason giao lại công việc kinh doanh của gia đình cho các con rồi an nhàn vui thú tuổi già tại một ngôi nhà rộng lớn ở khu East Ryde của thành phố Columbia với người vợ tên Betty Wiggins.

Tuy nhiên, vào tháng 11/2004, khi có dịp đến thành phố Columbia để truy tìm tung tích của một tên tội phạm, thanh tra Graig Leary bỗng chú ý đến tấm hình phóng to của Mason treo trang trọng trong một cửa hàng bán xăng. Những điểm giống nhau trên gương mặt của Mason với bức phác thảo chân dung của tên tội phạm đã giết hại hai đồng đội của ông tại El Segundo cách đó 49 năm đã khiến thanh tra Leary quan tâm. Vì thế thanh tra Leary liền đến Sở Cảnh sát thành phố Columbia để khai thác thêm chi tiết về Mason.

Biết rằng Mason từng có tiền án về tội trộm cắp và có lưu dấu vân tay tại Sở Cảnh sát nên thanh tra Leary yêu cầu cảnh sát thành phố El Segundo gửi các mẫu vân tay của tên tội phạm được thu giữ trong chiếc xe Ford Sedan để tiến hành so sánh. Và kết quả đã khẳng định chính Gerald Mason là kẻ đã cưỡng hiếp một cô gái trẻ, cướp xe và giết hại hai nhân viên cảnh sát tại thành phố El Segundo vào năm 1955. Vào sáng ngày 29/1/2005, cảnh sát đã tiến hành bắt giữ Gerald Mason ngay tại ngôi nhà của hắn ta.

Chỉ sau hai giờ bị thẩm vấn với các chứng cứ xác thực, Gerald Mason đã thú nhận toàn bộ tội lỗi mình đã gây ra cách đó 50 năm tại thành phố El Segundo. Được đưa về lại thành phố El Segundo để xét xử vào ngày 24/3/2005, Gerald Mason đã bị tuyên phạt tù chung thân về các tội cưỡng hiếp, cướp xe và giết hại hai nhân viên cảnh sát đang thi hành công vụ. Sau nửa thế kỷ, cuối cùng rồi công lý cũng được làm sáng tỏ

https://hv2tconan.forumvi.com

60những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Tue Aug 03, 2010 7:44 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Vụ án mạng hy nữu trong làng quần vợt Pháp



Quần vợt là một môn thể thao có thể “hái” ra bạc triệu và giúp “lên hương” nhanh chóng nên rất nhiều gia đình phương Tây không tiếc công sức nhào nặn con cái của mình thành sao. Nhưng thực chất, chúng lại bị biến thành những “cỗ máy kiếm tiền” cho gia đình.

Ngôi sao nữ Sharapova từng bị bố mình đưa sang Mỹ trong một chương trình huấn luyện tập trung đặc biệt kéo dài gần 6 năm. Huyền thoại Steffi Graf thừa nhận đã bị gia đình bắt buộc tập trung 100% thời gian cho việc cầm vợt từ khi còn bé tí. Jim Pierce, cha của ngôi sao quần vợt Pháp Mary Pierce, từng cấm đoán con gái mình giao du với các đồng nghiệp, buộc cô chấm dứt mọi mối quan hệ cá nhân khác. Sự việc đi xa đến mức Mary phải nhờ đến sự can thiệp của tòa án mới được... giải thoát! Tay vợt nữ Jelena Dokic bị người cha độc đoán kềm kẹp đến mức phải công khai từ bỏ quan hệ cha con.

Nói chung mọi chuyện cũng dừng lại ở mức độ nội bộ gia đình, chỉ làm căng thẳng thần kinh những đứa trẻ ngây thơ và hầu như không ảnh hưởng gì đến thế giới quần vợt. Nhưng mới đây, vụ án mạng hy hữu nhất từ trước đến nay trên sân quần vợt được mang ra ánh sáng sau gần 3 năm quên lãng đã khiến cho giới hâm mộ bị “sốc” thật sự! Cái chết bí ẩn của một tay vợt nam người Pháp sau một trận đấu quần vợt được giới cảnh sát tiết lộ là do một người cha 49 tuổi Christophe Fauviau đã lén đầu độc đối thủ của con mình trước trận đấu. Sự kiện này đã gióng lên hồi chuông cảnh báo tất cả các ông bố bà mẹ đang tìm cách biến con cái của mình trở nên nổi tiếng...

Đầu tháng 8/2003, tay vợt nghiệp dư Alexandre Lagardere (25 tuổi) có cuộc so tài với Maxime Fauviau (15 tuổi) trong khuôn khổ một giải đấu nghiệp dư ở Bordeaux, Pháp. Kết thúc ván thứ nhất, Alexandre cảm thấy người mệt mỏi, toàn thân đau nhức. Chiến thắng thuộc về tay vợt trẻ Maxime Fauviau vì Alexandre xin bỏ cuộc. Cậu bé Maxime hớn hở vui mừng vì giành được trận thắng đầu tiên sau hơn 4 năm luyện tập, nhưng bên ngoài sân đấu có một người còn vui sướng hơn nhiều lần, đó là cha của Maxime - ông Christophe Fauviau.

Hai giờ đồng hồ sau đó, Alexandre lái xe về nhà một mình trong trạng thái rất mệt mỏi. Chiếc xe vừa lao ra xa lộ khoảng vài kilômét thì đột nhiên Alexandre ngất xỉu đột ngột, đâm xe vào lề đường và Alexandre chết gục trên vôlăng. Kết quả cho thấy trong dạ dày anh có chất Temesta, một thứ thuốc an thần gây ra chấn động thần kinh và buồn ngủ; trong máu không hề có dấu hiệu của bất kỳ chất kích thích (bia, rượu) nào cả! Tất nhiên là không có mấy ai quan tâm tới cái chết của một tay vợt vô danh như Alexandre Lagardere, còn Maxime cũng chỉ là một tay vợt hạng xoàng chơi ở giải nghiệp dư địa phương. Có lẽ án mạng này đã chìm vào quên lãng nếu như không có sự phát hiện một cách ngẫu nhiên của một tay vợt về hành vi đáng ngờ của ông bố Christophe Fauviau trong khu vực thay đồ dành cho các vận động viên.

Trước trận đấu, tay vợt trẻ này thấy Christophe pha chế một thứ hợp chất gì đó nhưng anh ta không để ý vì ngỡ là nhân viên ban tổ chức. Nhưng khi bước ra sân đấu với Maxime, tay vợt này hoa mắt, mệt mỏi và nhanh chóng thua cuộc trước Maxime. Anh ta bị nôn mửa và được chở đến bệnh viện! Khi cảnh sát thu thập chứng cứ thì phát hiện ra trong chai nước uống của nạn nhân có những độc tố cũng tương tự như trong dạ dày của Alexandre Lagardere trước kia. Ngay sau khi thông tin này bị rò rỉ, lập tức các tay vợt khác từng thi đấu với Maxime cũng lần lượt lên tiếng cung cấp thông tin về những trận thua khó hiểu trong cơn mệt mỏi của họ. Cảnh sát âm thầm điều tra và thu thập chứng cứ phạm tội của Christophe Fauviau. Một tuần sau, tại sân bay Paris, cảnh sát Pháp đã bắt giữ Christophe khi ông này vừa trở về từ Cairo. Trước những chứng cứ quá rõ ràng, Christophe đành phải thừa nhận mọi tội lỗi. Chính vì không muốn con trai mình bị khinh thường nên Christophe Fauviau đã quyết tâm giúp Maxime giành chiến thắng bằng mọi cách, kể cả việc đầu độc các đối thủ.

Kẻ thủ ác cho biết đã đột nhập vào phòng thay quần áo các đối thủ của Maxime và lén bỏ thuốc vào những chai nước của họ khiến cho các tay vợt này hầu như không thể di chuyển nổi, giúp Maxime thắng như chẻ tre. Trò chơi ma quỷ này diễn ra thuận buồm xuôi gió trong thời gian bao lâu thì chỉ có Christophe mới biết. Căn bệnh thành tích, muốn thành công bằng mọi giá đã giết chết tương lai của gia đình nhà Fauviau.

“Có thể Christophe Fauviau sẽ bị tù từ 8 đến 20 năm. Phía tòa án còn đang xem xét trạng thái tâm lý của Christophe trước khi đưa ra quyết định cuối cùng chỉ vì những người có đầu óc không bình thường mới có những hành động như vậy...” - một quan chức của cảnh sát Pháp tiết lộ.

Trong quá trình điều tra, cảnh sát còn phát hiện Christophe Fauviau còn đang huấn luyện theo chế độ rất hà khắc đứa con gái 13 tuổi Valentine. Cô bé này được xem là niềm hy vọng lớn của quần vợt Pháp và theo các chuyên gia thì chỉ từ 2 đến 3 năm nữa, Valentine sẽ rạng danh trên sân quần vợt thế giới. Nhưng liệu có gì mờ ám đối với những thành tích mà cô gái này đạt được như anh trai Maxime? “Chúng tôi cho rằng Valentine là một tài năng thật sự và nhiều khả năng thành công đó là do quá trình khổ luyện chứ không do hành vi bẩn thỉu của người cha vì Christophe không được vào các khu thay đồ dành cho nữ giới...” - một người thạo tin cho biết. Nhưng dù sao những kết quả thi đấu của anh em nhà Fauviau đang được cảnh sát điều tra cẩn thận

https://hv2tconan.forumvi.com

61những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Tue Aug 03, 2010 7:44 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Kẻ sát nhân “ngoan đạo”


Ba thập niên kể từ khi tên sát nhân BTK (trói chặt, hành hạ và giết chết nạn nhân) bắt đầu cuộc giết hại tàn bạo của mình, cảnh sát thị trấn Wichita mới tóm cổ được nghi can không ai ngờ đến, đó là huynh trưởng hướng đạo sinh, một con chiên ngoan đạo - Dennis Rader.

Vào ngày 25/2/2005, khi 4 sĩ quan cảnh sát đến nhà thờ Chúa Cứu thế Lutheran ở Wichita với tờ lệnh khám nhà trong tay, mục sư Michael Clark hoàn toàn bị bất ngờ. Và tiếp đó là một cú sốc: cảnh sát nghi trưởng nhóm giáo dân Dennis Rader, một thành viên của nhà thờ trong gần 30 năm chính là tên giết người.

Trong buổi họp báo đầy xúc động, Cảnh sát trưởng Norman Williams tuyên bố BTK đã bị bắt, và bổ sung thêm 2 nạn nhân bị hắn sát hại là Marine Hedge 53 tuổi, bị giết vào tháng 4/1985 và Dolorers Davis 62 tuổi, bị hạ sát vào tháng 1/1991. Các giới chức có thẩm quyền cho hay, Dennis Rader năm nay 59 tuổi, đã liên can tới 10 vụ giết người trong khu vực, và họ không loại trừ khả năng sẽ có thêm các nạn nhân khác.

Hầu hết các gia đình ở Wichita đều thở phào nhẹ nhõm. Nhiều người tin rằng, Dennis Rader bắt đầu giết người vào năm 1974, khi hắn giết một lúc 4 thành viên trong một gia đình ngay tại căn nhà của họ. Và 5 năm kế tiếp, BTK giết ít nhất 3 người nữa, và gây ra cơn khủng hoảng tột độ tại địa phương.

Trong suốt nhiều năm qua, các nhân viên điều tra đã tìm thấy một số chứng cứ cụ thể có thể nhận dạng hung thủ, bao gồm dấu ấn của ngón tay cái, dấu của một phần lòng bàn tay và tinh dịch, nhưng tất cả các xét nghiệm đều không cho một kết quả như mong muốn, cho dù đã tiến hành cuộc xét nghiệm ADN trên hơn 4.000 người đàn ông.

Trong khi trốn tránh sự lùng bắt của nhân viên công lực, BTK cũng đã có hành vi chế nhạo họ cũng như các tờ báo địa phương, trong đó có cả một bức thư mỉa mai rằng: “Tôi cần giết bao nhiêu người để tên tôi được đăng lên báo?”. Nhưng sau năm 1979, các cuộc chạm trán và các vụ giết người đều đã chìm vào quên lãng.

Nhân viên điều tra cho đến nay không chịu tiết lộ yếu tố nào đã khiến họ thu hẹp phạm vi điều tra để nhắm hoàn toàn vào Dennis Rader. Mặc dù nhiều nguồn tin thông thạo nội bộ, trong đó có cả nguồn tin từ cựu Cảnh sát trưởng Wichita là Richard LaMunyon cho hay, chính xét nghiệm ADN đã cung cấp mối liên hệ mang tính chất quyết định.

Cảnh sát đã nhận được mẫu thử từ tay Kerri 26 tuổi, con gái của Dennis Rader, và nhận thấy mẫu thử đó hoàn toàn trùng khớp với những gì tìm thấy tại hiện trường các vụ giết người. Cho dù hành vi phạm tội của tên sát nhân mang tính tàn ác, ghê tởm, nhiều nhân viên tham gia điều tra vụ án BTK đã nghĩ ngay từ đầu rằng hắn có thể là một người bình thường, có việc làm và cũng chăm đi lễ nhà thờ như mọi người khác.

Cách mô tả đó hoàn toàn đúng với trường hợp của Dennis Rader. Hắn từng phục vụ trong lực lượng không quân, tốt nghiệp Trường đại học Wichita vào năm 1979, và làm nhân viên pháp chế cho Park City. Rader và vợ hắn sống trong một ngôi nhà 1 tầng thuộc loại vừa ở vùng ngoại ô thành phố Wichita được xây dựng dành cho tầng lớp trung lưu.

Một số hàng xóm của Rader cho biết, hắn là một người chuyên gây phiền nhiễu cho người khác bằng cách đưa họ ra hầu tòa vì những chuyện vặt. Theo mục sư Clark, cả gia đình của Rader hiện đang sống trong tình trạng hoang mang cực độ, họ vẫn đang tìm cách lý giải và tìm hiểu xem chuyện gì đang xảy ra!

Jeffrey Davis, năm nay 53 tuổi, cũng trong tình trạng đó, mẹ ông - bà Dolorers là nạn nhân được biết đến sau cùng của BTK. “Hình phạt tử hình không đủ để tẩy sạch tội ác tày trời của hắn - Davis phẫn nộ. Tôi chỉ mong sao cho hắn có thể sống tới 90 tuổi, và mỗi ngày như thế, hắn đều phải chịu đựng những cực hình của địa ngục trần gian!”

ANTG

https://hv2tconan.forumvi.com

62những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Tue Aug 03, 2010 7:45 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Gây án theo cách trên phim



Tại phiên tòa mở ra từ ngày 12 - 20/12/2004 ở thành phố San Diego, Kristin Rossum bị tuyên phạt tù chung thân vì tội mưu giết hại chồng bằng cách đầu độc. Laurie Agnew, thanh tra cảnh sát hình sự, phụ trách điều tra vụ án, cho biết: “Đúng là một vụ giết người hoàn hảo, không khác gì trong bộ phim "American Beauty”".

Chiều ngày 12/6/2004, như thường lệ, Kristin Rossum, 27 tuổi, làm việc tại Công ty Giám định chất độc ở thành phố San Diego thuộc bang California, trở về nhà sau một ngày làm việc căng thẳng, mà việc đầu tiên là vào phòng ngủ để xem bệnh tình của chồng ra sao. Suốt mấy ngày qua, Greg - chồng cô ta mắc chứng đau bụng và đã đỡ hơn khi được Kristin cho uống thuốc giảm đau.

Thế nhưng Kristin bỗng hết hồn khi phát hiện cơ thể của chồng đã lạnh ngắt nên liền gọi cấp cứu. Lật chiếc chăn phủ trên người Greg ra, Kristin bật khóc khi thấy có vô số cánh hoa hồng, còn trên chiếc gối bên cạnh có đặt bức ảnh chụp hai vợ chồng hạnh phúc trong ngày cưới và hai lọ thuốc loại oxycodone và clonazepam.

Có mặt tại hiện trường ngay sau đó, cảnh sát nhận định nạn nhân chết vào khoảng từ 10 – 11h cùng ngày và nguyên nhân là do tự tử bằng loại thuốc giảm đau oxycodone và loại thuốc cắt cơn nghiện ma túy clonazepam. Theo yêu cầu của Kristin, thi thể của người chồng xấu số sau khi được làm lễ thánh tại nhà thờ sẽ được đưa đi hỏa táng ngay mà không cần khám nghiệm pháp y.

Vụ án hoàn hảo

Sinh năm 1977 trong một gia đình trung lưu có cha là giảng viên đại học và mẹ là chuyên viên tư vấn về quảng cáo ở thành phố Claremont của bang California, Kristin Rossum trở nên nổi tiếng ngay từ nhỏ. Khi mới lên 6 tuổi, Kristin đã trở thành người mẫu nhí quảng cáo cho hệ thống cửa hàng bán thức ăn nhanh McDonald's ở địa phương.

Năm 14 tuổi, Kristin trở thành vũ công trẻ đầy triển vọng của đoàn múa ballet Orange của bang California. Thành công nhanh chóng đã làm cho Kristin quá tự cao và cuối cùng cô bị loại ra khỏi đoàn múa ballet Orange vào năm 17 tuổi. Chán nản, Kristin bắt đầu dính dáng đến thuốc kích thích.

Giấu giếm cả cha lẫn mẹ, Kristin một mình bỏ đến thành phố San Diego tìm cách cai nghiện nhưng lại nói dối gia đình là để học đại học. Tại đây, Kristin làm quen với Greg de Villers, một thanh niên đẹp trai con nhà gia giáo đang theo học ngành Sinh học tại Đại học California. Với sự giúp đỡ của De Villers, Kristin không những cai nghiện được thuốc kích thích mà còn theo học ngành Hóa học cũng tại Đại học California.

Năm 1999, cả hai làm đám cưới và một năm sau Kristin cũng tốt nghiệp đại học. Trong khi De Villers trở thành chuyên viên sinh học của Công ty Kỹ thuật sinh học Orbigen ở thành phố San Diego thì Kristin cũng tìm được việc làm tại Công ty Giám định chất độc cũng tại thành phố San Diego.

Sau khi vụ án xảy ra, có ba cú điện thoại liên tiếp gọi đến cho cảnh sát đã khiến thanh tra Laurie Agnew phải quan tâm. Cú điện thoại đầu tiên là của Jerome, anh trai của De Villers, cho biết em trai mình rất ghét sử dụng thuốc, nhất là thuốc giảm đau và chưa hề một lần nghiện ma túy hay thuốc kích thích, vì vậy De Villers không thể nào sử dụng nhiều loại thuốc, trong đó có loại clonazepam để tự tử.

Cú điện thoại thứ hai là của Stefan Gruenwald, Giám đốc Công ty Kỹ thuật sinh học Orbigen, cho biết suốt nhiều năm làm việc tại đây, De Villers là một chuyên viên gương mẫu, khỏe mạnh, không hút thuốc lá chứ đừng nói chi là nghiện ma túy hay thuốc kích thích.

Cú điện thoại thứ ba do một nữ đồng nghiệp của Kristin Rossum tại Công ty Giám định chất độc gọi đến cho biết là Kristin đang có quan hệ tình cảm với viên giám đốc Công ty tên là Michael Robertson. Thanh tra Laurie Agnew cho biết: “Đây là những thông tin vô cùng quý giá giúp chúng tôi quyết tâm làm sáng tỏ cái chết của De Villers”.

Thanh tra Laurie Agnew là xin lệnh của tòa án dừng ngay việc hỏa táng thi thể của De Villers để tiến hành giảo nghiệm pháp y. Kết quả cho thấy, trong cơ thể của nạn nhân không có sự hiện diện của thuốc giảm đau oxycodone và thuốc cắt cơn nghiện clonazepam nhưng lại hiện diện một liều lượng lớn fentanyl, một loại thuốc giảm đau cực mạnh, có thể gây tử vong cho người nếu được sử dụng liên tục trong nhiều ngày với liều lượng cao.

Khi bị thẩm vấn, Kristin thú nhận về mối quan hệ tình cảm giữa mình và Michael Robertson. Do De Villers biết được mối quan hệ này liền ngăn cản mà việc làm đầu tiên là tuyên bố không chấp nhận ly dị với vợ. Thế là một âm mưu giết hại chồng đã được Kristin vạch ra, có sự giúp đỡ của Robertson.

Là chuyên viên về độc dược, Kristin biết rất rõ cách gây đau bụng cho De Villers khi cho sử dụng thức ăn có pha lẫn chất clonazepam. Để làm giảm cơn đau cho De Villers, Kristin cho chồng sử dụng fetanyl với liều lượng tăng dần cho đến khi tử vong

https://hv2tconan.forumvi.com

63những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Tue Aug 03, 2010 7:45 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Ái tình là nguyên nhân của vụ án?



Tình yêu đam mê điên rồ của chủ ngân hàng Stern dành cho người tình xinh đẹp Cécile Brossard của ông đã dẫn đến một kết cục bi thảm. Một vụ án mạng mà các nhân vật của nó dường như bước thẳng ra từ một bộ phim hình sự căng thẳng.

Trong căn hộ xa hoa lộng lẫy của Edouard Stern ở số 17, đường Adrien-Lachenal, Genève, ngoài một bộ sưu tập các dụng cụ phục vụ chuyện phòng the, người ta còn tìm thấy 3 khẩu súng ngắn luôn được nạp đạn sẵn. Cécile Brossard, 36 tuổi, người khách đêm xinh đẹp của Edouard Stern hơn 4 năm nay thường xuyên ở bên cạnh ông chủ ngân hàng.

Brossard luôn theo sát Stern trong những chuyến đi săn ở Tanzania hay Ấn Độ, cũng như trong các chuyến làm ăn ở New York và London. Họ cùng chia sẻ tình yêu cuồng nhiệt đến mức cả hai cùng suy kiệt tinh thần lẫn thể xác. “Không thể sống chung mà cũng không thể chia tay nhau”, một người bạn gái của họ nói. Stern bao giờ cũng muốn làm chủ bản thân mình. Ông ta từng đe dọa chia tay, nhưng chỉ 2 ngày sau, chính ông ta nối lại tình cảm với Brossard.

Những sự giải hòa luôn theo sau những trận cãi vã kinh hồn. Từ đầu năm 2005, chuyện tiền bạc càng đầu độc thêm cho mối quan hệ của đôi uyên ương khác thường này. Ngày 12/1, Edouard Stern, người vốn rất hà tiện (theo người thân của Stern cho biết, ông ta chỉ tặng cho người tình một chiếc đồng hồ, một áo thun và một bộ da gấu mà ông ta săn được), đã rót 1 triệu USD vào tài khoản của Brossard ở Ngân hàng tín dụng Thụy Sĩ tại thành phố Montreux, mang đến cho Brossard số lãi 5.000 USD/tháng.

Nhưng tiền bạc vẫn không chấm dứt được những trận cãi vã, mà lại càng kích thích chúng gia tăng nhiều hơn nữa. Vào giữa tháng 2, Brossard đã chạy trốn. Bà sống biệt lập trong một căn nhà nhỏ ở Nanteuil, tỉnh Oise, Pháp. Và, cũng như bao lần chia tay trước đó, bà tắt điện thoại di động của mình. Ngày 21/2, Stern đã gửi một thư điện tử đe dọa đến người tình chạy trốn và yêu cầu Brossard hoàn trả 1 triệu USD.

Ngày 28/2, Brossasd chấp thuận quay về ngôi nhà của Stern vào khoảng 20h. Cécile Brossard rất am tường nơi đó: thậm chí bà đã tham gia vào công việc trang hoàng. Brossard đến trước 15 phút, mở cửa nhà bằng bộ chìa khóa của mình. ít phút sau Stern trở về.

Buổi tối hôm đó, như lệ thường, mối bất hòa tạm ngưng, nhường chỗ cho trận địa hoan lạc gối chăn. Stern nằm trên giường, mặc bộ đồ liền quần màu da người bằng vải latex, chất liệu cho phép làm mờ nhạt đi các dấu vết trên thân thể. Đôi tay ông ta bị cột chặt.

Ông chủ ngân hàng nói những lời cuối cùng: "1 triệu USD, giá đó quá đắt để trả cho một ả gái điếm". Brossard lấy khẩu súng 9mm trong tủ quần áo, bắn thẳng vào đầu Stern trong khoảng cách quá gần, 10 hay 15cm. Sau đó là 3 viên đạn khác bay ra khỏi nòng súng.

Brossard bắt đầu thu lượm 4 vỏ đạn nằm lăn lóc trong phòng, sau đó thay bộ đồ và nhét nó vào trong túi thể thao rồi bỏ vào thêm khẩu súng còn nóng cùng với 2 khẩu khác. Brossard uống mấy chai nước và để lại dấu tay trên chúng. Cuối cùng, bà ta đóng sập cửa và đi xuống bãi xe. Các camera lắp trong nhà đã ghi lại hình ảnh Brossard đi khỏi nhà, đồng hồ chỉ 21h17.

Trên đường đi, bà ta gọi điện cho Xavier, người chồng hợp pháp của bà ta. Các nhà điều tra xác định rằng, chồng của Brossard đã gọi điện thoại đến trạm đường sắt Thụy Sĩ để giữ một vé đi tuyến Montreux - Milan lúc 23h40. Đến Montreux, Brossard vứt đôi giày ủng của mình và cây roi vào thùng rác. Còn 3 khẩu súng thì ném xuống hồ cách đó không xa. Khi gặp chồng, bà ta vin cớ phải đi xa sau một trận cãi cọ với Stern.

Brossard bị lỡ chuyến tàu tốc hành đến Italia. Kẻ đào thoát biết rằng mình chỉ có vài giờ để rời Thụy Sĩ, bởi chỉ sáng hôm sau xác chết sẽ được phát hiện. Thế là Brossard phải đón taxi. Tài xế Rodovan Milic nhớ rõ cái đêm ấy. Người phụ nữ trẻ tóc vàng chải ngược ra sau van nài: “Làm ơn chở tôi đến Milan”.

Trên đường đi, bà ta giới thiệu mình là nghệ sĩ, vừa mới mất cha. Qua kính chiếu hậu, tài xế taxi nhận thấy nét xanh xao nhợt nhạt của bà ta. Đến gần Milan, Brossard mở hé cửa xe để vứt 4 vỏ đạn 9mm. 4h sáng, ngày 1/3, sân bay Milan còn đóng cửa. Bà ta lại van nài tài xế tiếp tục đi đến Rome. Quá mệt, tài xế từ chối, bỏ lại người khách và quay về Thụy Sĩ. Tổng cộng Brossard đã trả cho tài xế 1.200 frăng Thụy Sĩ (khoảng 750 euro).

Khi sân bay mở cửa, Brossard lao đến quầy vé của Australian Airlines mua một vé đi Sydney. Quá cảnh tại Vienna, nước Áo, khoảng 11h, Brossard làm việc với ngân hàng để lấy 1 triệu USD. Lúc đó ở Genève, ngày 1/3, vào đầu giờ chiều, xác của Edouard Stern được các đồng nghiệp của ông ta phát hiện.

Tại Sydney, vào chiều ngày 2/3, bà ta nhận được điện thoại của nhà sản xuất phim Fabienne Servan-Schreiber, em họ của Edouard Stern. Người phụ nữ này quen Brossard được vài tháng do Stern giới thiệu. Cũng suy sụp tinh thần, Fabienne báo tin về cái chết của Stern mà không biết rằng, người phụ nữ mình đang tiếp xúc chính là hung thủ!

Biết rằng không còn đường thoát, Brossard bắt đầu gọi nhiều cú điện thoại đến Pháp và Thụy Sĩ. Brossard gọi họ phải đến đón và đưa bà ta về quê nhà ở Clarens.

Sáng sớm ngày 4/3, cậu và mợ của Brossard có mặt tại Zurich. Trong xe, Brossard đã kể cho họ nghe về cái đêm định mệnh đó. Sau đó, Brossard đến ngay văn phòng của thẩm phán Michel-Alexandre Graber. Cảnh sát Thụy Sĩ tra hỏi Brossard suốt nhiều giờ liền. Nhưng sau đó cảnh sát thả bà ta ra để theo dõi và phát hiện những kẻ tòng phạm.

Ngày 15/3, Brossard bị bắt giữ tại Clarens. Trong lần thẩm vấn thứ hai này, Brossard thật sự suy sụp. Cảnh sát cũng tìm thấy được bức thư mà trong đó Stern hứa hẹn làm đám cưới với Brossard. Sau đó, Brossard dẫn cảnh sát đến nơi mà bà ta đã ném bỏ 3 khẩu súng

ANTG

https://hv2tconan.forumvi.com

64những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Tue Aug 03, 2010 7:46 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Vụ nổ Nhà máy Hoá chất AZF năm 2001: Do khủng bố



Sự thật về vụ nổ dữ dội tại Nhà máy Hóa chất AZF gây thiệt hại nặng về nhân mạng và tài sản cho thành phố Toulouse vừa được làm sáng tỏ. Đó không phải là một tai nạn mà là một vụ phá hoại có chủ ý.

Vụ nổ xảy ra vào lúc 10h17 ngày 21/9/2001, làm chết 30 người chết và gần 1.000 người bị thương, trong đó có hàng trăm người bị thương tật vĩnh viễn, 34.500 ngôi nhà bị hư hỏng, 3.500 công ty, xí nghiệp bị thiệt hại, nhiều cơ quan, trường học, bệnh viện phải ngừng hoạt động trong một thời gian dài để sửa chữa, gần 10.000 dân cư phải tái định cư đến nơi ở mới. Theo đánh giá của Chính phủ Pháp thì vụ nổ đã gây thiệt hại về tài chính lên đến 3,5 tỉ euro.

Tuy nhiên, nhiều viên chức chính quyền thành phố Toulouse, kể cả các thanh tra viên của Tập đoàn Atofina, đơn vị quản lý Nhà máy AZF, rồi cả Bộ Công nghiệp Pháp, đều cho đó là một tai nạn.

Vụ nổ do tổ chức Hồi giáo quá khích thực hiện

Để làm rõ sự thật về vụ nổ kinh hoàng tại Nhà máy Hóa chất AZF, Bộ Nội vụ Pháp đã triển khai một cuộc điều tra quy mô với sự tham gia của hàng trăm điều tra viên chuyên nghiệp của các đơn vị đặc biệt như Cục Khoa học kỹ thuật hình sự, Biệt đội Cảnh sát Điều tra trọng án và Biệt đội Cảnh sát Chống khủng bố.

Được Tập đoàn Atofina xây dựng tại thành phố Toulouse vào năm 1971, Nhà máy AZF có nhiệm vụ sản xuất chất ammonitrate để sản xuất phân bón và các chế phẩm khác phục vụ trồng trọt. Kho 221 chính là nơi chứa các thùng ammonitrate thành phẩm để được vận chuyển đến các nhà máy của Tập đoàn Atofina ở thành phố Fennouillet và Bordeaux để xử lý trước khi trở thành phân bón và các chế phẩm khác...

Với đặc điểm là dễ phát nổ nếu bị kích hoạt nên lượng 300 tấn ammonitrate chứa trong Kho 221 giống như một quả bom nổ chậm có sức tàn phá lớn.

Ngày 30/8/2001, chính quyền thành phố Toulouse nhận được chỉ thị từ Paris về việc khẩn trương triển khai kế hoạch chống khủng bố mang mật danh Vigipirate, sau khi có những cảnh báo về việc sắp xảy ra các vụ khủng bố trên phạm vi quốc tế từ Cục Điều tra liên bang Mỹ. Thế nhưng, không biết vì lý do gì mà chỉ một ngày trước khi xảy ra vụ nổ, Nhà máy AZF mới nhận được lệnh triển khai kế hoạch Vigipirate.

Trước đó, một tổ chức Hồi giáo quá khích có tên gọi Tablight, hoạt động bí mật tại miền Nam Pháp từ nhiều năm, đã lên kế hoạch phá hoại Nhà máy AZF bằng cách cho phát nổ kho chứa ammonitrate bằng bom tự tạo.

Trước khi xảy ra vụ nổ 4 ngày, 6 thành viên của tổ chức Tablight bí mật di chuyển từ thành phố Valence đến thành phố Toulouse để thực hiện vụ phá hoại Nhà máy AZF với sự trợ giúp đắc lực của một kẻ nội ứng, đó là Hassan Abderrazak. Sử dụng một phòng nhỏ trong căn hộ của Hassan, cả nhóm tiến hành chế tạo 2 quả bom tự tạo bằng việc pha trộn hóa chất diệt cỏ, nước tẩy Javel đậm đặc rồi cho vào vỏ của bình chứa gas xách tay. Được kích hoạt bởi một ngòi nổ, quả bom tự tạo này sẽ phát nổ gây phản ứng nổ dây chuyền cho các thùng chứa ammonitrate.

Chứng cứ cho thấy chính Hassan Abderrazak là kẻ trực tiếp gây ra vụ nổ gồm một quần ngắn, ba quần đùi và một quần lót được tìm thấy trên thi thể của Hassan. Theo đánh giá của một chuyên viên chống khủng bố thì đó chính là trang phục mà những kẻ đánh bom liều chết người Hồi giáo thường hay mặc khi thực hiện nhiệm vụ.

Theo lời khai của nhiều nhân chứng là tài xế xe tải đến Kho 221 để vận chuyển các thùng ammonitrate thì thái độ của Hassan rất khác thường. Gã ta nói năng lung tung và lớn tiếng cự cãi cả với cánh tài xế và các đồng nghiệp.

Hassan đã to tiếng với một tài xế xe tải tên là Philippe vào sáng ngày 20/9/2001: “Tụi mày hãy coi chừng, mai sẽ là ngày trọng đại đó!”. Theo nhận định của các nhân viên điều tra, ngày trọng đại mà Hassan ám chỉ chính là ngày 21/9/2001 với vụ nổ do gã gây ra tại Kho 221 của Nhà máy AZF.

Một chi tiết quan trọng được các nhân viên điều tra xác định có liên quan đến vụ nổ, là sau khi vụ nổ xảy ra hơn một tiếng đồng hồ, cảnh sát giao thông làm nhiệm vụ trên tuyến xa lộ nối liền thành phố Toulouse với Valence đã chặn kiểm tra hai chiếc xe hơi hiệu Peugeot Safrane bị bể toàn bộ kính chắn gió.

Trên hai xe có tất cả 6 người đàn ông Hồi giáo, mà theo nhận dạng của các cảnh sát giao thông cho thấy đó là các thành viên của tổ chức Tablight. Các tên này sau khi phối hợp với Hassan Abderrazak gây ra vụ nổ đã rời ngay thành phố Toulouse để tránh bị phát hiện.

Một quả bom tự tạo, được phát hiện trong một lùm cây cách Nhà máy AZF chừng 400 mét. Quả bom này cũng chứa đầy hỗn hợp hóa chất diệt cỏ và nước tẩy Javel đậm đặc. Theo nhận định của các nhân viên điều tra thì đây chính là một trong 2 quả bom mà nhóm của Hassan chế tạo để gây nổ tại Nhà máy AZF. Nhưng do lo sợ bị phát hiện bởi các nhân viên bảo vệ nhà máy nên Hassan chỉ có thể bí mật đưa vào Kho 221 một quả, còn quả kia gã giấu trong lùm cây gần nhà máy.

Nhiều nhân chứng là bảo vệ của các nhà máy lân cận đã khai báo với các nhân viên điều tra rằng, vào tối hôm trước khi xảy ra vụ nổ, họ có nghe tiếng xe hơi lạ chạy nhiều vòng gần khuôn viên Nhà máy AZF. Nhưng do không tin đó là xe hơi của bọn phá hoại nên họ không báo cho cảnh sát.

Sémouci, 1 trong 12 nghi can người Maroc, tham gia vụ khủng bố tại Madrid, Tây Ban Nha vào ngày 11/3/2004, bị bắt giữ vào tháng 10/2004 tại thành phố Seville, đã thú nhận, hắn chính là một trong những thành viên của tổ chức Tablight tham gia gây nổ tại Nhà máy hóa chất AZF. Nhưng hắn khai nhận chỉ là chuyên viên chế tạo bom, còn kẻ gây nổ trực tiếp chính là Hassan Abderrazak.

Tổng hợp các chứng cứ lại với nhau, các nhân viên điều tra đã kết luận vụ nổ kinh hoàng xảy ra tại Nhà máy AZF vào ngày 21/9/2001 không phải là một vụ tai nạn như chính quyền thành phố Toulouse và Tập đoàn Atofina luôn khẳng định, mà là một vụ phá hoại có chủ ý.

Trách nhiệm của chính quyền thành phố Toulouse là không kịp thời phổ biến kế hoạch chống khủng bố Vigipirate đến tận các nhà máy, còn bản thân Tập đoàn Atofina đã không đôn đốc Nhà máy AZF tăng cường bảo vệ Kho 221 là nơi chứa các thùng ammonitrate dễ phát nổ. Để trốn tránh trách nhiệm, chính quyền thành phố Toulouse và Tập đoàn Atofina liền cho rằng đó là một vụ tai nạn

https://hv2tconan.forumvi.com

65những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Tue Aug 03, 2010 7:47 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Giết người theo games



Cả gia đình ba người tại thành phố biển Guarapari, bang Espirito Santo (Brazil) đã bị giết một cách dã man. Tất cả đều bị bịt mắt, đánh thuốc mê và bắn vào đầu ở cự ly gần ngay trên giường ngủ. Thủ phạm bị bắt, cả đất nước Brazil kinh hoàng khi chúng khai rằng tất cả chỉ do một trò chơi điện tử mà người thua phải trả giá bằng cái chết.

Ngày 13/5/2005 thợ cắt cỏ Ronald Ribeiro Rodrigues, 22 tuổi và Mayderson Vargas Mendes, 21 tuổi, thất nghiệp thú nhận đã giết sinh viên vật lý Tiago Guedes, 21 tuổi, cùng cha mẹ anh ta. Chúng khai vụ giết người này là một phần trong trò chơi điện tử mà người chơi nhập vai nhân vật và người thua sẽ phải để cho kẻ thắng giết mình cùng gia đình.

“Hai tên này tỏ ra rất lạnh lùng, chúng biết rõ hành động của mình là vi phạm pháp luật và chúng sẽ phải trả giá”, điều tra viên Alexandre Lincoln Capela cho biết.

Vụ án đã thu hút sự chú ý của công chúng Brazil và chứng tỏ tác hại vô cùng lớn của các trò chơi điện tử nhập vai mà trong đó người chơi trở thành một nhân vật. Các nhà lập pháp bang Espirito Santo vội vã ban hành một đạo luật cấm tất cả các trò chơi điện tử, đồng thời các cha xứ và mục sư trên toàn Brazil cũng lên tiếng ủng hộ đạo luật này. “Chúng ta cần ngăn chặn tất cả những gì khuyến khích các hành vi bạo lực”, một nghị sĩ của bang phát biểu.

Nhưng một số người yêu thích trò chơi điện tử tỏ ý nghi ngờ lời khai của hai sát thủ, theo họ chúng không khớp với những truyền thống của các trò chơi thể loại nhập vai, mà điển hình là trò Dungeons & Dragons, trong đó các games thủ hóa thân thành một nhân vật của trò chơi và phát triển các câu chuyện trong thế giới tưởng tượng của mình.

Các diễn đàn về trò chơi điện tử trên Internet cũng xuất hiện ý kiến cho rằng, vụ án thực chất là một vụ giết người cướp của và hai thủ phạm cố tình đổ lỗi cho trò chơi điện tử để được nhẹ tội. Bằng cách này, chúng có thể được coi là tâm thần phân liệt. Nếu chúng nhận tội giết người, cướp của, chúng sẽ bị kết án tù chung thân, bởi Brazil không có án tử hình.

Vụ án này cũng tương tự như vụ giết hại một cô gái 18 tuổi xảy ra năm 2001. Nạn nhân đã bị đánh tới chết và cảnh sát cho biết, cô đã tham gia một trò chơi điện tử kéo dài ba ngày và người thua sẽ phải chết. Tuy nhiên, không ai bị buộc tội về cái chết này.

Cũng theo cảnh sát, trò chơi điện tử đã khiến cả gia đình Guedes phải chết chỉ kéo dài có 5 tiếng đồng hồ. Nạn nhân Guedes đã nhập vai một cảnh sát tên là Flavio, Mendes nhập vai ma quỷ và Rodrigues là thầy phù thủy điều hành trò chơi. Cảnh sát không rõ Guedes đã thua như thế nào, nhưng sau khi thua, cả 3 đã tới ngân hàng Guedes gửi tiền, rút toàn bộ số tiền 1.745 USD trong tài khoản. Sau đó, Guedes giúp hai tên kia giết bố mẹ mình, rồi cũng chịu chung số phận. Trước khi bỏ đi, hai tên đã lấy đi một bộ máy tính.

Những người yêu thích trò chơi điện tử cho rằng, kết luận của cảnh sát có rất nhiều sơ hở bởi các trò chơi thể loại này có thể phải kéo dài tới hàng tháng, thậm chí là hàng năm trời, sẽ không có người thắng cũng như người thua và không bao giờ có trò cá cược.

Rodrigues và Mendes là những người thuộc tầng lớp lao động và Guedes thuộc tầng lớp trung lưu, họ chỉ mới quen nhau đúng hôm xảy ra vụ án. Những cũng có thể cả ba đã chơi trò chơi ngay tại nhà của Guedes, dưới sự chứng kiến của bố mẹ anh ta.

Trên một tờ báo địa phương, Rodrigues cũng thú nhận rằng anh ta bị cuốn vào trò chơi mà anh ta không thể ngờ rằng các nạn nhân sẽ bị chết. “Khi bạn tạo ra một nhân vật, dường như chính bạn đang sống trong thế giới của trò chơi, đang đi giữa rừng với một bầy thú dữ”, anh ta nói

https://hv2tconan.forumvi.com

66những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Tue Aug 03, 2010 7:47 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Kẻ tấn công bí ẩn trong nhà xác



Thành phố Memphis, bang Tennessee, nổi tiếng là cái nôi của nhạc blues và là một trong những thành phố có tỉ lệ giết người cao nhất nước Mỹ. Nhưng nó cũng là nơi từ lâu lưu giữ một bí ẩn mà cho đến nay vẫn chưa sáng tỏ.

Bác sĩ (BS) pháp y Smith, 52 tuổi, rất yêu nghề khám nghiệm tử thi của mình. Các cảnh sát hình sự như Mike Willis và Jerry Blum luôn nhờ đến sự giúp đỡ của Smith để lần ra những manh mối dù là nhỏ nhất. Hiện nay, BS Smith là người giữ một bí ẩn kỳ cục làm cho cả thành phố Memphis phải xôn xao.

Ông bị một kẻ ma quái nào đó tấn công, vào một đêm tháng 6/2002, khi ông đang làm việc trong nhà xác. Ông kể rằng: “Kẻ đó xuất hiện phía bên phải tôi. Tôi thoáng thấy một người đàn ông, cao khoảng 1,8 mét và thấy như có cái gì đó bắn vào mặt bỏng rát. Tôi liền đưa tay lên sờ mắt và bị thêm một tia thứ hai". Sau khi ông bị lòa mắt bằng thứ nước kiềm, gã lạ mặt đấm vào mạng sườn Smith rồi lôi ông xuống cầu thang, xô ngã sấp mặt xuống đất. Hắn dùng dây thép gai để trói tay, chân và buộc một vòng quanh đầu Smith. Sau đó, kẻ tấn công còn cài một quả bom tự tạo trước ngực Smith. Khoảng hai giờ sau, cảnh sát tuần tra phát hiện ra Smith. Cuối cùng quả bom bị vô hiệu hóa và Smith được đưa đến bệnh viện.

Sau khi chữa trị, Smith xuất viện. BS Smith thoát chết, nhưng cảnh sát tin rằng có một gã điên trong thành phố Memphis và hắn có thể xuất hiện gây án lần nữa. Một đội cảnh sát đặc nhiệm được thành lập để truy lùng tung tích gã đàn ông bệnh hoạn này, nhất là khi họ biết rằng trước đây Smith cũng từng bị tấn công đúng nơi chân cầu thang mà ông vừa bị tấn công. Cảnh sát còn tìm thấy một quả bom ngoài nhà xe.

Ai đã tấn công Smith? Ông cho rằng: “Đó là một kẻ rối loạn tâm thần. Một kẻ chất chứa nhiều sự giận dữ". Smith lo sợ kẻ lạ mặt sẽ xuất hiện lần nữa nên đã tìm một con chó bảo vệ và luôn mang súng bên mình. Ai muốn tấn công vị bác sĩ pháp y? Câu hỏi này luôn ám ảnh viên cảnh sát Memphis. Larry Godwin, Giám đốc Cảnh sát, đặt nghi vấn: “Có phải Smith bị tấn công vì chính công việc của ông ta và có ai đó không ưa những gì Smith đã làm?”.

Sau khi xác định giả thuyết báo thù là động cơ của sự tấn công, cảnh sát tập trung điều tra vào một người mà Smith biết rất rõ: Phillip Workman. Năm 1981, Workman dính líu vào một vụ cướp có vũ trang tại một cửa hàng ăn nhanh. Trung úy Cảnh sát Ronald Oliver, là người có mặt đầu tiên tại hiện trường, đã bị bắn chết trong cuộc đọ súng với Workman. Cảnh sát phát hiện khẩu súng thuộc sở hữu của Workman, nhưng không bao giờ tìm thấy viên đạn định mệnh đã giết chết Oliver. Sau đó Workman bị kết án tử hình vào năm 1982. Từ trong hành lang tử hình, Workman nói: “Tôi tin tưởng mình không giết chết Oliver".

Workman nói: "Tôi thừa nhận đã ăn cướp có vũ trang, nhưng tôi không phải là kẻ giết người". Workman nhấn mạnh rằng Oliver đã bị giết bởi súng của một nhân viên cảnh sát nào đó. Cách đây 4 năm, ủy ban khoan hồng đã chịu lắng nghe Workman. Thế nhưng đúng thời điểm đó thì một nhân chứng đặc biệt xuất hiện, đó là bác sĩ pháp y Smith. Vị bác sĩ đã đưa ra bằng chứng buộc tội mới. Smith xác nhận rằng khi xét nghiệm phần mô bao quanh vết thương do đạn bắn của Oliver, ông phát hiện dấu vết của viên đạn mà chỉ có thể được bắn ra từ súng của Workman. Workman liền lên tiếng phản bác: "Ông ta là kẻ giết người. Ông ta có thể giết chết tôi vì bằng chứng giả của ông ta". Robert Hutton, luật sư của Workman, bác bỏ bằng chứng của Smith.

Tháng 4/2001, những sự việc lạ lùng bắt đầu xảy ra. Những lá thư đe dọa Smith liên tục xuất hiện với lời lẽ sặc mùi tôn giáo và được gửi đến một luật sư ở Memphis, phóng viên và luật sư của Workman. Một lá thư tương tự như thế được tìm thấy cạnh quả bom đặt bên ngoài nhà xác vào tháng 3/2002. Và, cũng những lời lẽ y hệt lá thư trên được kẹp cùng quả bom cài trên người Smith vào đêm ông bị tấn công. Một mặt quả bom ghi “thanh gươm nằm trong tay vị vua của các vị vua” và mặt khác có 3 chữ JMJ. Chúng có nghĩa là gì? Đó là “Jesus, Mary và Joseph”, Smith nói.

Nhưng Workman phủ nhận mình có liên can đến những sự việc kỳ lạ này. Workman nói: "Các ông cần phải điều tra bác sĩ Smith". Workman có thể đạo diễn cuộc tấn công lạ lùng như thế từ sau song sắt ở hành lang tử hình được không? Luật sư Bud Cummins nói: “Hắn ta đã được thẩm vấn. Các nhà điều tra đã hướng đến các thành viên trong gia đình hắn, những người có thể đã có hành động như thế". Nhưng cuộc điều tra không có kết quả và cuối cùng người ta bác bỏ giả thuyết Workman là thủ phạm. Và luật sư Cummins phát hiện một điều gì đó khi quan sát hiện trường vụ án. Smith đã nói dối về cuộc tấn công trong nhà xác? Hay chính Smith đã dựng lên mọi chuyện.

Các nhà điều tra bắt đầu quay sang Smith. Nhưng BS vẫn một mực bảo rằng ông tin mình là mục tiêu tấn công trả thù bằng những chứng cứ mà ông đã đưa ra. Khi kiểm tra lại cuộc tấn công kỳ lạ này người ta bắt đầu phát hiện nhiều điểm mâu thuẫn trong lời khai của BS Smith. Trong 2 lời khai trước đó, Smith nói rằng kẻ tấn công đầu tiên buộc dây thép gai quanh cổ chân, rồi sau đó mới buộc cổ tay ông ta. Nhưng sau này Smith lại nói ông ta bị cột tay trước. Đối với nữ công tố viên Pat Harris, bức ảnh chụp Smith sau cuộc tấn công đã bộc lộ những nghi vấn. Smith giải thích như thế nào về việc mặt ông ta không bị thương do dây thép gai?

“Smith nói dây thép gai đã gỉ sét, đã mòn vẹt nên chỉ có thể làm xước chớ không làm rách da được! Còn về phần các vết bỏng trên mặt Smith? Công tố viên Harris tin rằng chính Smith đã té nước kiềm lên mặt mình và cố tránh không cho nước ấy chạm đến mắt.

Một năm sau vụ tấn công kỳ lạ ở nhà xác, cuộc điều tra kết thúc với một kết quả mà không ai có thể ngờ được.

Tháng 2/2004, Smith bị buộc tội đã nói dối cảnh sát và các cơ quan điều tra và sở hữu quả bom bất hợp pháp! Ông Wharton, Thị trưởng Memphis, yêu cầu Smith từ nhiệm chức vụ bác sĩ pháp y. Thế là danh tiếng khó khăn lắm mới có được của Smith biến thành mây khói. Các công tố viên đưa ra 2 giải pháp cho Smith chọn lựa: tự thú tội để khỏi bị ngồi tù.

Nhưng Smith không nhận đặc ân mà đi thuê luật sư tiếng tăm Jerry Easter. Sự việc ngày càng tồi tệ hơn và cả thành phố Memphis đều xôn xao trước vụ án kỳ cục này. Riêng nữ công tố viên Pat Harris cho biết người ta có thể tự trói mình bằng dây thép gai, tuy không dễ nhưng hoàn toàn có thể làm được.

Nhưng tại sao một bác sĩ đáng kính trọng như thế lại làm chuyện tự hại mình? Theo Harris, ông ta thích được mọi người quan tâm đặc biệt đến mình. Dựng lên một sự kiện để thu hút sự chú ý của dư luận là một điều kiện tâm thần được thừa nhận gọi là rối loạn giả tạo. Dạng phổ biến nhất là hội chứng Munchausen - tức là một người tự làm cho mình mắc bệnh. Tuy nhiên, Smith phủ nhận mình bị rối loạn giả tạo. Bác sĩ tâm thần của tòa án Park Dietz đề cập một câu chuyện mà Smith từng kể cho nhiều người nghe - rằng ông ta từng có mặt ở châu Phi và gia đình ông ta đã bị thảm sát - là không có thật. Điều đó càng chứng tỏ Smith đã nói dối về cuộc tấn công trong tháng 6/2002.

Luật sư bào chữa cho Smith bác bỏ giả thuyết về sự rối loạn giả tạo. Nhưng các công tố viên cho biết một sự kiện khác: khi được thẩm vấn, Smith không hành động như một người vô tội, mà ông ta quá bình tĩnh. Nếu bị kết án, Smith có thể lãnh 20 năm tù, trong khi đó Smith cứ khăng khăng là mình vô tội. Sau 3 tuần tranh cãi, với gần 60 nhân chứng, vụ án Smith vẫn không tiến triển thêm chút nào.

Cuối cùng người ta phải tuyên bố đây là vụ xử án sai, một kết thúc bất thường đối với một vụ án bất thường! Smith được tự do, nhưng ông ta vẫn đối mặt với khả năng xử án lại. Riêng Smith vẫn tin rằng kẻ tấn công ông ta vẫn còn ở đâu đó. Nhưng cảnh sát Memphis không còn quan tâm đến chuyện tìm kiếm kẻ bí ẩn đó nữa, và tòa án Mỹ tuyên bố vụ án đã kết thúc. Bác sĩ Smith nói ông ta còn lo sợ cho sự an toàn tính mạng của mình ở Memphis. Nhưng từ sau cuộc tấn công đêm tháng 6/2002, Smith không còn chạm trán với bất kỳ sự đe dọa nào nữa

https://hv2tconan.forumvi.com

67những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Tue Aug 03, 2010 7:47 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Vào tù để bảo vệ quyền tự do báo chí



Tối cao Pháp viện đã từ chối thụ lý vụ việc của 2 phóng viên "New York Times" và "Time Magazine", và họ có nguy cơ bị tù giam vì đã không đồng ý tiết lộ nguồn thông tin trong một vụ điều tra liên quan đến Nhà Trắng.

Tối cao Pháp viện là thẩm cấp kháng cáo cuối cùng của 2 phóng viên, trong khi vào tháng 4, tòa phúc thẩm liên bang đã giữ nguyên bản án tháng 10/2004 của tòa sơ thẩm kết án họ 18 tháng tù giam nếu họ vẫn nhất quyết không chịu cung cấp nguồn thông tin trước tòa.

Quan tòa cho rằng 2 phóng viên Judith Miller và Matthew Cooper đã xúc phạm tòa án khi từ chối hợp tác với luật pháp, và họ chẳng hưởng được đặc quyền nào từ điều luật bổ sung trong Hiến pháp bảo đảm quyền tự do báo chí. Tòa phúc thẩm dựa vào một phán quyết của Tối cao Pháp viện năm 1972, cho rằng sự bảo vệ quyền tự do báo chí không áp dụng đối với các phóng viên mà lời chứng được xem là rất quan trọng trong một vụ án hình sự. Tối cao Pháp viện đã không chấp nhận đơn thỉnh cầu của 2 phóng viên xin đặt ra một quyền cho phóng viên không bắt buộc phải tiết lộ nguồn thông tin với chính phủ. Cả hai đều tuyên bố sẵn sàng vào nhà giam để bảo vệ quyền tự do báo chí.

Quan tòa Hogan thừa nhận rằng trường hợp này thể hiện một sự xung đột giữa các giá trị đối nghịch trong Hiến pháp, nhưng “những quyết định của tòa án phải được tôn trọng nếu chúng ta ở trong một xã hội văn minh”.

Cuộc điều tra mà 2 phóng viên được yêu cầu tiết lộ nguồn cung cấp thông tin là nhằm xác định xem có phải một nhân viên trong Nhà Trắng đã cho báo chí biết về sự phụ thuộc vào cơ quan CIA của Valerie Plame, vợ cựu Đại sứ Joseph Wilson. Tiết lộ danh tánh của một nhân viên CIA là phạm tội hình sự theo luật pháp Mỹ. Theo ông Wilson, sự rò rỉ này có mục đích trừng phạt ông vì vào tháng 7/2003, ông đã công khai tỏ ý nghi ngờ tuyên bố của Tổng thống George Bush về một thông tin liên quan tới Iraq.

Nữ phóng viên Miller không viết gì về vụ việc, nhưng bà đã có những cuộc nói chuyện về chủ đề đó, còn Cooper đã đăng một bài trên tạp chí “Time”. Miller thổ lộ rằng bà rất thất vọng về quyết định của Tối cao Pháp viện: “Các nhà báo không thể làm việc nếu không đảm bảo với nguồn cung cấp thông tin rằng sẽ giữ bí mật danh tính của họ. Sự bảo vệ đó là rất quan trọng cho tự do báo chí trong một nền dân chủ”. Vị chủ bút tờ “New York Times” cũng cho biết rằng ông bị sốc vì Judith có thể vào tù chỉ bởi muốn bảo vệ nguồn thông tin.

Tổ chức “Phóng viên không biên giới” đã chỉ trích quyết định của Tối cao Pháp viện Mỹ là “tụt hậu và giết chết quyền tự do. Động thái đó đã giáng một đòn quyết định vào bí mật nghề nghiệp, nền tảng cần thiết của sự tự do thể hiện”, đồng thời thỉnh cầu tòa án Mỹ cho 2 phóng viên được miễn thi hành án.

Tổ chức này cũng kêu gọi Quốc hội Mỹ nhanh chóng biểu quyết dự luật đã được đưa ra vào tháng 2 vừa qua thừa nhận đặc quyền giữ bí mật nguồn thông tin cho các nhà báo. Dự luật quy định một phóng viên chỉ có thể bị mời ra trước tòa án liên bang khi không còn cách nào khác. Và tòa án liên bang chỉ có thể tiếp cận mọi tài liệu nghề nghiệp của phóng viên như sổ ghi chép, e-mail, phim ảnh khi thấy rằng chúng thật cần thiết cho một vụ án hình sự

https://hv2tconan.forumvi.com

68những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Tue Aug 03, 2010 7:48 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Mở lại phiên toà vụ thảm sát của băng 3K 41 năm trước



Sau 41 năm, các cơ quan tố tụng tại Philadelphia lại lật lại vụ thảm sát dã man “Freedom Summer Murders” (Những vụ sát nhân vào mùa hè tự do) do những kẻ thuộc hội 3K thực hiện.

Jacqueline (49 tuổi) vẫn nhớ rõ buổi chiều kinh hoàng ngày 20/6/1964: "Chúng tôi đang chơi đùa với người anh phía trước nhà thờ Mount Zion thì nghe thấy từ xa tiếng những chiếc xe tải của bọn Ku Klux Klan (3K) đến. Chúng tôi đã cảnh báo cho cha mẹ mình khi đó đang trong nhà thờ và tất cả chạy ra xe. Nhưng khi đó bọn chúng đã kịp lao tới. Tôi cúi đầu xuống trốn và chỉ kịp nhìn thấy những chiếc áo khoác của bọn chúng. Tôi nghe thấy bọn chúng hỏi cha mình: Có nhìn thấy 3 anh bạn nhỏ không? Sau đó chúng đã đốt hết mọi thứ và sát hại mọi người".

Bọn 3K đã không phải mất nhiều thời gian để tìm ba anh bạn nhỏ trên. Đó chính là chàng thanh niên da đen ở địa phương James Chaney và hai thanh niên da trắng từ New York là Andrew Goodman và Michael Schwerner - những người vừa tới thị trấn nhỏ Philadelphia để tham gia chiến dịch vận động cộng đồng thiểu số người da đen tại đây tham gia bầu cử.

Đến ngày hôm sau, ngay sau khi tới thăm nhà thờ Mount Zion vừa diễn ra vụ thảm sát, chiếc xe của họ đã bị cảnh sát địa phương chặn lại vì “chạy quá tốc độ”. Khi được thả ra, họ đã lọt vào ổ phục kích của bọn 3K. Goodman và Schwerner bị bắn chết. Còn Chaney vì là người da đen nên đã bị đánh đập và tra tấn cho tới chết.

Năm 1967, có tất cả 18 kẻ tình nghi đã phải ra tòa nhưng chỉ với một tội danh duy nhất là “vi phạm nhân quyền”. Còn tên linh mục Edgar Ray Killen, kẻ được coi là lãnh đạo của chi nhánh 3K ở địa phương này, đã trốn tránh được sự trừng phạt của pháp luật. Về sau, một thành viên trong bồi thẩm đoàn giải thích, rằng họ không thể tống vào tù “con người của đức tin”.

Đã 41 năm trôi qua, và Philadelphia lại có dịp nhớ tới những sự kiện từ xa xưa này. Mọi chuyện bắt đầu từ ngày mùng 8/1/2004, khi công tố viên trưởng bang Mississippi, Jim Hood và công tố viên Mark Duncan tại địa phương đã bất ngờ đưa ra lời buộc tội Edgar Ray Killen (80 tuổi) vì tội đã tham gia vào 3 vụ giết người. Với tuyên bố này, các đại diện của luật pháp còn khẳng định: “Đã đến lúc công lý phải được thực hiện”.

Quá trình điều tra lại, theo như Mark Duncan giải thích, được bắt đầu từ năm 1999, sau khi báo chí địa phương cho công bố bài trả lời phỏng vấn của Sam Bowers, kẻ từng cầm đầu tổ chức “White Knights of the Ku Klux Klan” (Những hiệp sĩ trắng của Ku Klux Klan) - một trong những tổ chức phân biệt chủng tộc có ảnh hưởng nhất thời bấy giờ. Bowers, kẻ đã bị kết án tù chung thân vì một vụ giết người vào năm 1966 tại một thành phố khác của bang Mississippi, đã tuyên bố: “Hắn không cảm thấy lo sợ khi ngồi tù, vì lãnh tụ thứ hai của 3K vẫn lẩn tránh được luật pháp”.

Để lật lại vụ án, công tố viên Duncan đã phải đọc lại gần 44 ngàn trang tài liệu và lời khai của các nhân chứng trong phiên tòa năm 1967. Đó là chưa kể đến những báo cáo của FBI, khi các nhân viên của họ có mặt tại Philadelphia để điều tra trong suốt 40 ngày, trước khi phát hiện ra những thi thể bị chôn của Chaney, Goodman và Schwerner. “Tôi không thể nói với các bạn rằng, chúng tôi đã có những bằng chứng mới chống lại Killen. Nhưng có thể nói là chúng tôi đang làm tất cả để kết thúc vụ án trên mà không e ngại phản ứng của bất cứ ai” - Duncan đã tuyên bố như vậy.

Đúng như Duncan đã dự tính, phiên tòa trên đã gặp phải những phản ứng khá gay gắt. Ngay khi Killen phải ra trước tòa, quan tòa đã một lần yêu cầu mọi người phải di tản gấp khỏi phòng xử án, sau khi có thông tin cho biết có bom được gắn tại đây. Ngoài ra, người em của bị cáo còn tấn công một phóng viên. Còn người dân da đen tại đây cũng có thái độ khá dè dặt.

“Những vụ sát nhân đã từng lơ lửng trên đầu thành phố này như một đám mây lớn - James Young, một thành viên người da đen trong chính quyền địa phương nói - Hồi năm 1967, không có kẻ nào bị buộc tội sát nhân vì đơn giản là chính quyền bang không muốn điều đó. Ngày nay, phiên tòa này đã khiến chúng tôi phải đặt câu hỏi: Tình trạng quan hệ chủng tộc hiện nay tại Mỹ là như thế nào? Nạn phân biệt chủng tộc vẫn còn, cụ thể là trong lĩnh vực kinh tế, và người da đen vẫn cảm thấy mình là người ngoài lề như trước đây”.

Linh mục Robin Risher tại thị trấn Union (nơi Killen đang sống) thì lại có quan điểm khác: “Tất cả đều cho chúng tôi là những người phân biệt chủng tộc, nhưng không phải là như vậy. Còn về phiên tòa ư? Tôi không biết nó có thể đem lại điều gì. Tốt hơn là chúng ta nên khép lại quá khứ”.

Còn bản thân Edgar Ray Killen cũng bày tỏ thái độ coi thường báo chí. Ông ta được ra tù vào ngày 12 tháng giêng (sau khi được một người bạn cầm cố ngôi nhà để trả 250 ngàn USD tiền tại ngoại). “Tôi chưa bao giờ gặp gỡ ba chàng trai trên và chưa bao giờ gia nhập 3K - Killen khẳng định - Nhưng tôi đang sống trong một thế giới với bản thân mình và chúa trời”.

So với thời điểm năm 1967, chỉ còn 7 trong số 18 nhân chứng đã tham gia phiên tòa năm đó. Lời buộc tội đối với bị cáo chủ yếu dựa vào lời khai của 6 người đã tham gia vào vụ thảm sát này. Theo họ, Killen đã tiến hành vụ thanh trừng trên theo lệnh của Sam Bowers. Cụ thể là tên này muốn tiêu diệt Michael Schwerner, người được coi là “nhân tố hoạt động nguy hiểm”.

Công tố viên Mark Duncan không loại trừ khả năng, phiên tòa xét xử Killen sẽ là khởi điểm cho một loạt các điều khoản buộc tội bổ sung khác. Ông đã tuyên bố thưởng 100 ngàn USD cho bất cứ thông tin mới nào liên quan đến vụ án này.

“Phiên tòa này là cần thiết để cho phép chúng ta tiến lên phía trước!” - đó là ý kiến của Lames Prince, chủ biên tờ báo địa phương Neshoba County Democrat, và Leroy Clemons, quan chức da đen của chi nhánh NAACP ở địa phương - một tổ chức chuyên bảo vệ quyền lợi của người Mỹ gốc Phi.

Clemons nhận định: “Dù chưa thực sự lý tưởng, nhưng mối quan hệ giữa hai cộng đồng da trắng và da đen đã tốt lên đáng kể. Mọi người có giáo dục hơn, ít những hành động mang tính bất nhã hơn và cũng ít sợ nhau hơn. Nếu như chúng ta muốn các thế hệ tương lai sống trong một sự hòa hợp hoàn toàn, cần phải khép lại thực sự cái chương đen tối này của quá khứ”

https://hv2tconan.forumvi.com

69những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Tue Aug 03, 2010 7:48 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Những bí ẩn về tên tội phạm nguy hiểm



Những vụ mất tích kỳ lạ ở Mỹ những năm cuối thập niên 60 của thế kỷ trước khiến các nhà chức trách đau đầu. Chưa ai có thể hình dung được rằng một loại tội phạm mới nguy hiểm đã xuất hiện: giết người hàng loạt.

Chiều ngày 21/4/1969, cô Sharon Wood, 24 tuổi, rời nhiệm sở ở Portland đi gặp chồng để tính chuyện ly hôn. Khi bước vào bãi đỗ ôtô thì bất chợt một gã đàn ông xuất hiện, trên tay cầm súng, uy hiếp cô. Sharon Wood cố sức chống trả. Cô nghe tiếng ôtô đến gần, tên gian manh nhặt súng bỏ chạy. Sau này Sharon Wood khai với cảnh sát rằng đó là một người đàn ông cao, mắt xanh và trên mặt có nhiều vết tàn nhang. Nhưng cảnh sát không tìm được hung thủ qua mô tả nhân dạng của Sharon.

Chiều hôm sau, cô gái 15 tuổi ở Salem (Oregon) cũng bị một gã đàn ông cao lớn tấn công trong chiếc xe hơi thể thao. Không có nhân chứng, và người đàn ông được mô tả trong hai trường hợp đã biến mất không để lại dấu vết gì.

Linda Slawson, 19 tuổi, là nhân viên chào hàng cho một công ty xuất bản sách. Vào ngày 26/1/1968, Linda Slawson đến Portland (Oregon) để tìm khách hàng nhưng sau đó không ai nhìn thấy cô gái nữa. Sau những cuộc tìm kiếm, cuối cùng cảnh sát phát hiện chiếc xe của Linda Slawson, bên trong không có dấu vết gì. Nếu cô gái bị bắt cóc, thì hẳn hung thủ là một người rất cẩn thận không muốn để lại vết tích.

Tiếp đó, ngày 26/11/1968, cô Jan Whitney, 23 tuổi, biến mất trên đường trở về nhà. Chiếc xe của cô cũng được cảnh sát tìm thấy nhưng không phát hiện được gì. 4 tháng sau, ngày 27/3/1969, Karen Sprinker, 19 tuổi, cũng mất tích một cách kỳ lạ như hai trường hợp trên. Chỉ 4 tuần sau đó, Linda Salee, 22 tuổi, bị mất tích khi đang mua hàng trong một shop. Và, cũng như các trường hợp khác, khám xét chiếc xe của Linda Salee cũng không thấy dấu vết gì chứng tỏ đã xảy ra bạo lực.

Cảnh sát nghi ngờ có sự liên quan giữa các vụ mất tích bí ẩn này. Tất cả nạn nhân đều là phụ nữ da trắng, trẻ tuổi. Bí mật bao trùm cho đến một ngày người ta phát hiện những phần thân thể người tại một con sông.

Sự khám phá ác nghiệt

3 tuần sau khi Linda Salee bị mất tích. Vào một ngày tháng 5, một người đàn ông câu cá trên bờ sông Long Tom, nam Corvallis (bang Oregon), bất chợt phát hiện những phần thi thể người trên mặt nước. Cảnh sát nhận định đó là xác phụ nữ, bị cột vào một bộ phận của xe hơi bằng dây điện với kiểu nút thắt đặc biệt và nút thắt này được giữ lại để làm bằng chứng sau này. Xem xét sợi dây, cảnh sát nhận định có thể hung thủ là một thợ điện. Khám nghiệm vùng cổ cho thấy nạn nhân đã bị siết cổ. Biên bản pháp y xét nghiệm răng của nạn nhân xác định đây là phần thân thể của Linda Salee.

Vài ngày sau, khi tiếp tục tìm kiếm dọc bờ sông Long Tom, cảnh sát phát hiện thêm những phần thi thể của một phụ nữ khác - cũng bị cột bằng dây điện với kiểu nút thắt đặc biệt. Và nạn nhân thứ hai này cũng bị siết cổ. Cảnh sát cho biết đó chính là Karen Sprinker.

Cảnh sát quyết định mở cuộc điều tra từ Trường đại học bang Oregon. Các sinh viên nữ than phiền là họ thường nhận được những cú điện thoại lạ từ một người đàn ông có ý muốn dụ họ ra khỏi trường. Cảnh sát bắt đầu nghi ngờ một gã tóc đỏ thường la cà quanh khu vực trường học, có nhân dạng giống như mô tả của các nạn nhân. Một cái bẫy được giăng ra, với sự giúp sức của một nữ sinh viên, và cuối cùng cảnh sát đã bắt giữ được người đàn ông này. Hắn tên là Jerry Brudos, làm nghề thợ điện.

Lật giở bí mật

Jerome Henry Brudos sinh năm 1939, tại nam Dakota. Ngay từ nhỏ, Brudos đã bộc lộ ý thích bệnh hoạn đối với giày và đồ lót phụ nữ. Năm 16 tuổi, hắn đã dùng dao uy hiếp một cô gái 17 tuổi phải lột bỏ quần áo để hắn chụp hình! Tình trạng tâm lý đáng sợ của Brudos buộc người ta phải tống hắn vào bệnh viện tâm thần.

Năm 22 tuổi, Brudos gặp một cô gái 17 tuổi tên là Darcie và sau đó họ trở thành vợ chồng và có với nhau 2 đứa con. Trong cuộc sống vợ chồng, Darcie luôn phải phục tùng sở thích tình dục quái đản của hắn. Không những thế, Brudos còn thường mặc cả quần áo phụ nữ!

Năm hắn 28 tuổi, một hôm Linda Slawson xuất hiện trước cửa nhà hắn, và cô gái tội nghiệp đã trở thành nạn nhân. Đây là vụ giết người đầu tiên của Brudos, và chỉ sau khi hắn mô tả cho cảnh sát biết những gì mà hắn đã làm thì toàn bộ tâm lý ám ảnh tình dục bệnh hoạn của hắn mới phơi bày ra ánh sáng.

Khi khám xét căn nhà của Brudos, cảnh sát tìm thấy sợi dây nilông và dây da có lẽ được Brudos sử dụng để giết người. Họ cũng khám phá nơi cất giấu “bộ sưu tập” khủng khiếp của Brudos: giày đủ cỡ và mọi kiểu đồ lót của phụ nữ, cũng như các tấm ảnh chụp nạn nhân. Đồng thời cảnh sát cũng thu thập được từ một nạn nhân may mắn thoát chết các chi tiết về vụ tấn công của Brudos, mặc dù người phụ nữ này không thể xác định được kẻ đã tấn công mình. Trong tai nạn đó, người phụ nữ đã bị mất đôi giày và một số đồ lót.

Sau khi bị bắt giữ, Brudos chấp nhận khai báo một cách chi tiết về các tội ác do mình gây ra. Dĩ nhiên hắn cũng không giấu giếm sở thích bệnh hoạn của hắn đối với giày và đồ lót phụ nữ.

Hắn khai, từ tháng 1/1968 đến tháng 4/1969, hắn đã giết chết và cắt rời thi thể 4 phụ nữ. Cũng như tất cả các cô gái là nạn nhân của hắn, Brudos cưỡng dâm sau đó giết chết họ. Với tội ác ngất trời của mình, Brudos phải nhận bản án tù chung thân

https://hv2tconan.forumvi.com

70những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Sun Aug 22, 2010 8:32 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Tên giết người hàng loạt ở Victoria (I)


Chỉ trong vòng 7 tuần của mùa hè năm 1993, 3 cô gái trẻ, tuổi 17, 18 và 22, đã bị đâm và chém tới chết một cách hết sức rùng rợn. Một vụ xảy ra giữa ban ngày, ở vùng Frankston, cách xa Port Phillip Bay ở vùng phía đông Victoria khoảng 40 phút xe chạy.

Và một phụ nữ khác, 41 tuổi, bị tấn công dữ dội nhưng may mắn thoát chết từ tay tên sát nhân máu lạnh này.

Các nạn nhân này không hề quen biết nhau và chẳng có gì liên quan đến nhau, ngoại trừ một điểm là tất cả đều sống trong khu vực Frankston. Sau hai vụ giết người đầu tiên và một vụ hành hung mà nạn nhân may mắn trốn thoát, cảnh sát biết rằng, có một kẻ giết người hàng loạt đang hoành hành ở khu vực này. Tên giết người đã chọn các nạn nhân một cách ngẫu nhiên và giết chết họ mà chẳng có lý do nào cả. Giả thuyết của cảnh sát đã được chứng minh là đúng khi một phụ nữ trẻ tuổi khác đã bị sát hại một thời gian ngắn sau đó.

Tên giết người hàng loạt này là Paul Charles Denyer, một người đàn ông 21 tuổi béo phì, cao khoảng 1,8 mét, có biệt danh là John Candy, tên của diễn viên rất vui tính (đã qua đời) trong các bộ phim Uncle Buck, The Blues Brothers và Cool Runnings. Nhưng Paul Denyer, trông bề ngoài có vẻ giống John Candy lại không phải là người đàn ông vui tính. Hắn là một tên quái vật béo lùn, không thích nghi được với xã hội, cư xử thô lỗ và thù ghét phụ nữ. Khi còn rất nhỏ hắn đã cắt cuống họng những con gấu nhồi bông của đứa em và nên bị ám ảnh từ những bộ phim có những cảnh chém giết rùng rợn như The Stepfather, Fear and Halloween. Đây là 2 trong số những bộ phim mà hắn đã xem đi xem lại đến độ thuộc lòng.

Paul Denyer cũng đã cắt cổ con mèo của gia đình bằng con dao găm của ông anh và treo xác con vật đáng thương lên một cành cây. Sau khi bị bắt vì tội giết người, người ta phát hiện ra rằng chính Denyer đã mổ bụng con mèo của một người bạn và cắt cổ những con mèo con của nó. Như vậy, bản năng sát sinh đã phát triển trong tâm tưởng của Paul khi hắn còn rất nhỏ tuổi và hành động giết người chỉ là vấn đề thời gian mà thôi.

Lúc bị bắt, Paul đã hoàn toàn không biểu lộ bất cứ cảm xúc nào khi kể với cảnh sát việc hắn đã đã giết chết ba phụ nữ như thế nào. Hắn cũng cho biết, hắn đã bị thôi thúc giết người từ khi mới 14 tuổi: “Tôi luôn luôn muốn giết người, chờ đợi đúng lúc, chờ đợi sự kích động thầm lặng đó để ra tay hành động”.

Tên giết người “The Frankston Serial Killer” Paul Denyer, sinh ra ở Sydney ngày 14/4/1972 và là con thứ ba trong số 6 anh em 5 trai, 1 gái. Cha mẹ hắn là lao động di cư. Ông bà Maureen và Anthony Denyer đến Úc vào năm 1965 và sau đó định cư ở Campbelltown, vùng ngoại ô phía tây Sydney. Chỉ có một điều đáng lưu ý nhất về thời thơ ấu của Paul Denyer là khi còn là một đứa trẻ, hắn đã bị lăn từ trên chiếc bàn ăn và đập đầu xuống đất. Tai nạn này đã trở thành một câu chuyện vui cười của gia đình trong nhiều năm và mỗi khi Paul nói hoặc làm điều gì bất thường thì mọi người đều nói rằng: “Đó là vì mày đã bị ngã đập đầu xuống đất khi còn rất nhỏ”.

Paul gặp rất nhiều khó khăn để có thể sống hoà đồng với những đứa trẻ khác trong trường mẫu giáo. Tuy nhiên, có vẻ như hắn đã vượt qua được khó khăn này khi lên tiểu học và trở thành một đứa trẻ bình thường. Nhưng tất cả đều thay đổi khi gia đình di chuyển tới tiểu bang Victoria vào năm 1981 vì ông Anthony Denyer đảm nhận chức quản lý của nhà hàng The Steak Place trên đường Centre Road, South Oakleigh, nằm trên tuyến đường xe lửa của Frankston.

Tất cả những đứa con của ông Anthony đều không thích chuyển đến Victoria. Chúng đã quen sống ở vùng Campbelltown và nhất là Paul cảm thấy rất khó khăn để thích nghi với cuộc sống mới. Tại trường học mới Northvale Primary, hắn trở thành một đứa trẻ khác hẳn, lạc lõng và rất khó kết thân với những người bạn mới. Tình trạng này trở nên tệ hại hơn khi Paul to lớn và mập mạp hơn những đứa trẻ khác. Thay vì ham mê những trò chơi mà những đứa trẻ cùng tuổi ưa thích, Paul đã bắt đầu có một “bộ sưu tập” gồm những con dao, dùi cui và những chiếc ná (slingshot) bắn đạn đá hoặc bi sắt.

Ý định sát nhân của hắn đã bắt đầu nhen nhúm rất sớm khi hắn thường xuyên mổ xẻ những con gấu nhồi bông của đứa em gái bằng một con dao làm tại nhà. Và khi lên 10 tuổi, Paul đã đâm chết con mèo của gia đình và treo xác nó lên một cành cây ở mảnh vườn sau nhà. Hắn còn giết và mổ xác 2 con dê trong một khu đất trống gần nhà.

Ngay trước ngày sinh nhật 13 tuổi, Paul Denyer bị buộc tội ăn trộm một chiếc xe hơi và chỉ bị phạt cảnh cáo. 2 tháng sau, hắn lại gây rắc rối lần nữa, bị buộc tội ăn trộm và quấy rối cảnh sát cứu hoả. 15 tuổi, Paul đã ép buộc một thiếu niên khác thủ dâm trước mặt một số đứa trẻ và lần này hắn bị buộc tội hành hung.

Năm 1992, Paul cặp kè với Sharon Johnson, cô gái mà hắn đã quen trong khi làm việc tại siêu thị Safeway. Hắn đã bị đuổi việc vì cố tình đụng mạnh vào một phụ nữ và đứa con của bà ta bằng một dãy những chiếc xe đẩy. Một thời gian sau, Paul Denyer nộp đơn xin gia nhập lực lượng Cảnh sát Victoria nhưng bị từ chối vì không đủ tiêu chuẩn về sức khỏe do quá mập. Công việc cuối cùng của hắn là tại một cơ xưởng đóng tàu. Nhưng hắn cũng bị đuổi vì dành quá nhiều thời gian để làm những con dao thay vì làm việc.

Đến năm 1993, Paul trở thành kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Hắn không thể giữ được một công việc nào lâu dài vì quá lười và không có năng lực. Trong đầu hắn đã bắt đầu bị ám ảnh bởi những cảch chết chóc, hắn thường xuyên xem những bộ phim giết người rùng rợn như “The Stepfather”. Hắn đến sống với Sharon Johnson trong một căn hộ ở đường Dandenong Road, Frankston. Trong khi Paul thất nghiệp, Sharon làm công việc bán hàng trên điện thoại.

Trong thời gian này, vài điều bất bình thường đã bắt đầu xảy ra ở khu chung cư nơi Paul sinh sống. Một người thuê nhà báo cảnh sát rằng căn hộ của cô ta bị đột nhập, quần áo và những tấm ảnh về lễ đính hôn của cô ta bị cắt nát. Một người khác thì phát hiện có một kẻ nào đó nhìn trộm cô qua cửa sổ. Nhưng điều đáng lo ngại nhất là những gì đã xảy ra với Tricia, cô gái sống trong cùng dãy phòng với Paul và Sharon.

https://hv2tconan.forumvi.com

71những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Sun Aug 22, 2010 8:33 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Tên giết người hàng loạt ở Victoria (II)


Paul và Sharon bắt đầu trở nên rất thân thiện với người hàng xóm Tricia và chị gái của cô tên là Donna. Donna sống với người chồng không hôn thú tên Les trong một dãy phòng gần đó cùng với một đứa con.

Vào một buổi tối tháng 2/1993, Les và Donna trở về nhà lúc 11 giờ đêm sau khi Les làm xong công việc giao bánh pizza buổi tối thì nhìn thấy một cảnh tượng hết sức hãi hùng: trên bức tường trong phòng khách, bên cạnh chiếc vô tuyến, có hàng chữ viết bằng máu “Dead Donna”. Giữa sàn nhà trong phòng bếp là xác chết của con mèo tên Buffy của Donna bị mổ bụng với một tấm hình phụ nữ mặc bikini được đặt trên xác của nó.

Nội tạng của con mèo đáng thương bị vứt bừa bãi khắp phòng ăn, máu tung toé khắp nơi. Giữa bức tường là hàng chữ “Donna You’re Dead” (Donna, mày đã chết) được viết bằng chính máu của con mèo. Một trong hai tròng mắt của con Buffy bị lồi ra, tròng còn lại không thấy đâu. Trong phòng tắm, họ còn nhìn thấy hai con mèo con của Buffy bị cắt đứt nơi cổ họng, nằm chết trong bồn tắm đầy nước pha máu. Những bức tường của phòng giặt cũng bị vẩy đầy máu, từ trần xuống sàn.

Trong phòng ngủ chính, kẻ đột nhập đã lục lọi các ngăn kéo, quần áo bị cắt nát, vứt khắp phòng. Những tấm ảnh người đẹp khỏa thân của Les bị rạch nát và bị đâm bằng một vật sắc nhọn. Những cánh cửa của tủ đựng chén bát bị vỡ, thủng nhiều lỗ. Quần áo của trẻ em cũng bị cắt nát và một tấm ảnh người mẫu khỏa thân bị đâm vào ngực được bỏ vào trong nôi. Hai chữ “Donna and Robyn” được viết trên tấm kính của bàn trang điểm bằng bình xịt cạo râu. Donna không hề biết Robyn là ai.

Kể từ đó Donna không dám sống trong căn hộ này nữa mà đến sống tạm trong căn hộ của Tricia cho tới khi thuê được một nơi khác. Người hàng xóm của Tricia, Paul Denyer, đã nói với Donna rằng kể từ nay cô sẽ được an toàn và nếu cảnh sát bắt được kẻ phạm tội, hắn sẽ đích thân dạy cho tên này một bài học.

Đến ngày thứ Bảy 12/6/1993, xác chết không mảnh vải che thân của cô sinh viên 18 tuổi, Elizabeth Stevens, được tìm thấy trong công viên Lloyd trên đường Cranbourne Road, Langwarrin, cách Frankston không xa. Elizabeth được gia đình người cậu báo mất tích vào buổi tối hôm trước. Elizabeth bị cắt đứt cổ họng, có 6 vết đâm ở ngực, 4 vết cắt sâu từ ngực tới rốn. Mặt của nạn nhân bị một số vết cắt và trầy xước, mũi bị sưng vù, chiếc áo lót quấn quanh cổ. Khám nghiệm tử thi cho thấy nạn nhân đã bị hãm hiếp trước khi bị giết. Đây là giết người hết sức tàn bạo và điên rồ. Elizabeth là một cô gái sống chan hoà, không hề có thù oán với ai.

Cảnh sát đã thực hiện một cuộc truy lùng quy mô lớn. Họ đến gõ cửa từng căn nhà trong khu vực và thẩm vẫn các tài xế và hành khách trên chiếc xe buýt mà Elizabeth đã đi vào hôm bị giết. Họ kiểm tra mọi thư viện trong khu vực, những nơi mà cô sinh viên này có thể đã đến đọc sách. Tuy nhiên, những nỗ lực của cảnh sát đã không mang lại kết quả nào.

Đến buổi tối ngày 8 /7/1993, thư ký ngân hàng Roszsa Toth, 41 tuổi, trên đường đi bộ về nhà ở Seaford, Frankston, đã bị một người đàn ông có súng tấn công rất tàn bạo. Bị lôi vào một công viên gần đó, bà Roszsachống cự dữ dội và vài lần cắn thật mạnh vào tay của tên quái vật này. Cuối cùng bà Zoszsa đã chạy thoát được. Với bộ quần áo bị rách tả tơi, đi chân đất, bà cố vẫy một chiếc xe hơi chạy ngang qua trong khi kẻ tấn công biến mất vào bóng đêm. Nếu không chống cự quyết liệt, chắc chắn bà ta đã bị giết chết.

Bà Roszsa gọi cảnh sát và chỉ vài phút họ đã đến ngay hiện trường. Tuy nhiên họ đã không tìm thấy gì cả.

Cũng trong buổi tối hôm đó, Debbie Fream, 22 tuổi, vừa sinh con trước đó 12 ngày, đã bị mất tích trong khi lái xe tới một cửa hàng ở Seaford để mua một bình sữa. 4 ngày sau, xác chết của Debbie được một người nông dân tìm thấy trên cánh đồng cỏ của ông ta, gần Carrum Downs. Debbie bị đâm tổng cộng 24 nhát vào cổ, đầu, ngực và hai cánh tay. Nạn nhân cũng bị xiết cổ, nhưng không bị hãm hiếp.

Cho đến lúc này, tất cả các phụ nữ trong khu vực Frankston đều không dám một mình ra đường và đường xá vắng tanh khi trời tối. Việc bán và cho thuê các căn nhà trong khu vực này cũng giảm rõ rệt. Frankston trở nên nổi tiếng là nơi hoành hành của một tên giết người hàng loạt. Hàng ngày, các tờ báo đều có bản tin cập nhật về cuộc truy lùng của cảnh sát nhằm bắt giữ tên giết người nguy hiểm này.

https://hv2tconan.forumvi.com

72những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Sun Aug 22, 2010 8:34 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Tên giết người hàng loạt ở Victoria (III)

Cảnh sát đã ráo riết điều tra, không bỏ sót bất cứ một manh mối nào. Một trung tâm thông tin có tên Operation Reassurance được thành lập để chỉ dẫn cho các phụ nữ địa phương nên làm những gì nếu bị tên sát nhân "Frankston Serial Killer" tấn công và các phương cách để tránh bị tấn công.

Tuy nhiên, các biện pháp này cũng chẳng có hiệu quả. Buổi trưa ngày 30/7, Natalie Russell, 17 tuổi đã bị mất tích khi đi xe đạp từ trường John Paul College (ở Frankston) về nhà.

8 giờ sau đó, xác chết của Natalie được tìm thấy trong một bụi cây bên cạnh con đường dành cho xe đạp. Cô bị đâm nhiều nhát vào mặt và cổ, cuống họng bị cắt đứt. Sự dã man trong vụ giết chết Natalie Russell còn ghê sợ hơn so với hai vụ trước. Natalie không hề bị hãm hiếp. Nhưng lần này tên sát nhân đã để lại một chứng cứ có thể chứng minh hắn phạm tội (nếu hắn bị bắt). Một mảnh thịt (có thể từ một ngón tay) được tìm thấy ở cổ của nạn nhân. Nó không phải của cô gái xấu số này. Có giả thiết cho rằng tên giết người đã tự cắt vào ngón tay mình trong khi tấn công cô sinh viên và mảnh thịt này đã dính vào cổ nạn nhân.

Người ta còn tìm thấy một vật chứng khác nữa là chiếc Toyota Corona màu vàng đỗ gần con đường dành cho xe đạp lúc 15 giờ, thời điểm mà các nhà điều tra ước tính Natalie đã bị giết chết. Viên cảnh sát tinh mắt đã ghi lại được số xe từ đăng ký xe dán ở kính trước bởi vì chiếc xe này không có biển số. Trở lại trạm cảnh sát, các thám tử đưa số xe này vào máy điện toán. Đây là chi tiết phù hợp với lời khai của một người đưa thư rằng anh ta đã nhìn thấy một người đàn ông ngồi ở ghế trước của chiếc Toyota Corona màu vàng với bộ dạng rất khả nghi như thể tránh bị mọi người nhìn thấy mặt. Cuộc kiểm tra bằng máy điện toán cũng cho thấy chiếc xe này đã đỗ rất gần nơi xác chết của cô Debbie Fream được tìm thấy.

Chiếc xe được đăng ký với cái tên Paul Charles Denyer. Chủ nhân của nó không có mặt tại nhà khi hai thám tử Mick Hughes và Charlie Bezzina tìm đến 15h40. Họ để lại tấm danh thiếp dưới cửa và yêu cầu Paul liên lạc ngay khi về đến nhà. Vào lúc 5h15, các thám tử nhận được một cú điện thoại từ Sharon Johnson. Vì không muốn làm Paul hoảng sợ, các thám tử cho cô ta biết đây chỉ là một “cuộc điều tra bình thường” và họ phải tiến hành thẩm vấn tất cả cư dân trong khu vực. Trong vòng 10 phút, một nhóm các thám tử do Mick Hughes, Rod Wilson và Darren O’Loughlin chỉ huy, đã bao vây căn hộ ở số 186 Frankston Dandenong Rd.

Khi nghe tiếng gõ cửa, Paul Denyer liền mở khóa và nói rằng hắn rất ngạc nhiên khi nhìn thấy có quá nhiều thám tử đến chỉ vì một cuộc điều tra thông thường. Tuy nhiên hắn vẫn vui vẻ mời họ vào nhà. Về việc chiếc xe không có biển số, Paul giải thích rằng hắn có một giấy phép sử dụng nó thời gian 28 ngày trong khi sửa chữa những thứ cần thiết để đăng ký lại.

Trong khi Paul giải thích đã ở đâu trong thời gian các vụ giết người xảy ra, các thám tử để ý thấy hai bàn tay của hắn có một vài vết cắt. Một vết cắt khiến họ nhớ đến một mảnh da được tìm thấy trên thi thể của cô Natalie Russell. Mặc dù Paul thừa nhận đã có mặt ở vùng lân cận nơi xảy ra hai vụ giết người nhưng hắn vẫn một mực khẳng định không hề biết gì về hai vụ án mạng này cho đến khi đọc báo.

Về lý do có mặt gần hiện trường vụ giết người, Paul đưa ra những lời giải thích thiếu sức thuyết phục rằng chiếc xe của hắn bị hỏng gần nơi cô Natalie Russell bị giết chết và lần khác thì hắn chờ để đón người bạn gái đi làm bằng xe lửa. Còn những vết cắt ở hai bàn tay, Paul nói rằng tay hắn bị xước tay khi sửa xe.

Tuy nhiên hắn không thể qua mặt được các thám tử dày dạn kinh nghiệm. Họ biết chắc chắn ràng đã tóm được tên giết người và vấn đề bây giờ chỉ là thời gian để buộc hắn phải thú nhận tất cả. Bị đưa đến trạm cảnh sát Frankston và thẩm vấn trong phòng có máy ghi hình, Paul Denyer một mực khẳng định mình vô tội. Nhưng đến sáng hôm sau, hắn biết rằng đã đến lúc tận số khi cảnh sát yêu cầu hắn cung cấp mẫu máu và vài sợi tóc để thử ADN.

Paul hỏi gian bao lâu thì mới có kết quả của cuộc thử nghiệm ADN và cảnh sát có một thứ gì đó để so sánh với AND của hắn không. Sau một hồi suy nghĩ, hắn bất ngờ nói với thám tử Darren O’Loughlin rằng: “Vâng, tôi đã giết chết ba phụ nữ này”. Lúc đó là 4 giờ sáng ngày 1/8/1993, Paul Denyer bắt đầu thú tội giết chết Eliazbeth Stevens, Debbie Fream và Natalie Russell, và tấn công bà Roszsa Toth.

https://hv2tconan.forumvi.com

73những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Sun Aug 22, 2010 8:34 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Tên giết người hàng loạt ở Victoria (IV)

Paul Denyer khai với cảnh sát rằng vào khoảng 19h buổi chiều mưa gió và u ám ngày 11/6/1993, Elizabeth Stevens bước ra khỏi chiếc xe buýt ở đường Cranbourne, Langwarrin, để đi bộ một quãng đường ngắn về nhà.

Paul Denyer chủ định giết bất cứ phụ nữ trẻ nào đi qua nơi hắn ngồi rình rập. Hắn đi theo cô sinh viên trẻ này dưới trời mưa và bất ngờ chộp lấy vai cô, đe dọa cô nếu la lớn sẽ bị bắn chết. Hắn khai với các thám tử rằng vũ khí mà hắn dùng để dí vào lưng Elizabeth thật ra không phải là một khẩu súng mà chỉ là một khúc ống nhôm có cán bằng gỗ. Với thứ vũ khí này, Paul đã ép cô gái tới Lloyd Park, một công viên ở gần đó.

Paul khai rằng: “Tôi dí mũi “súng” vào gáy cô ta, đẩy cô ta tới một ngọn đồi thấp. Khi đến ngọn đồi đó, cô ta xin đi tiểu. Tôi tôn trọng sự riêng tư của cô ta, do đó tôi ngoảnh mặt sang hướng khác. Khi cô ta đi vệ sinh xong, chúng tôi đi tới một đám cây, ở đó tôi dùng hai bàn tay bóp cổ và chỉ một lúc cô ta bất tỉnh. Sau đó tôi rút con dao trong người ra và đâm nhiều nhát vào cổ họng cô ta nhưng cô ta vẫn còn sống, đứng dậy đi vài bước rồi mới ngã xuống đất. Tôi dùng chân đạp thật mạnh vào cổ cô ta để cô ta chết hẳn”.

Thái độ lạnh lùng và xấc láo của Paul khi thú tội đã làm các thám tử cảm thấy lạnh xương sống. Hắn không tỏ một chút cảm xúc hoặc một chút hối hận nào. Hắn đã mô tả và diễn lại việc ấn ngón tay cái vào cổ họng của Elizabeth Stevens và siết cổ cô gái như thế nào. Và trước sự kinh ngạc đến sững sờ của các thám tử, hắn còn tả lại cảnh tượng Elizabeth run lên bần bật trước khi tắt thở như thế nào.

Sau đó hắn lôi xác chết của cô tới một cái rãnh và vứt ở đó. Tên sát nhân máu lạnh kể rằng con dao tự tạo mà hắn dùng để đâm Elizabeth đã bị cong lưỡi và gẫy cán. Hắn đã vứt nó trên đường khi tẩu thoát khỏi hiện trường giết người. Khi bị hỏi tại sao hắn đã giết chết Elizabeth Stevens, Paul lạnh lùng trả lời: “Tôi chỉ muốn giết người. Tôi muốn cướp đi một mạng người bởi vì tôi nghĩ đời sống của tôi đã bị người ta cướp đi rất nhiều lần.”

Sau một lời thú tội rất chi tiết về vụ giết người thứ nhất, Paul Denyer tiếp tục kể về những điều xảy ra buổi tối ngày 8/7/1993. Hắn kể rằng sau khi nhìn thấy bà Toth đi bộ gần trạm xe lửa Seaford, hắn đã đi theo và dùng một tay bịt miệng bà, tay còn lại dí khẩu súng giả vào đầu bà. Bà Toth phản ứng rất dữ dội và cắn thật mạnh vào ngón tay của hắn.

Hai người vật lộn và bà Toth thoát ra khỏi tay hắn, chạy ra giữa đường nhưng không có một chiếc xe nào chạy ngang qua dừng lại. Paul đuổi theo bà Toth, nắm lấy tóc và nói: “Câm miệng, hoặc tao sẽ bắn vỡ sọ bây giờ”. Bà Toth quá sợ hãi đã gật đầu nghe lời. Tuy nhiên, ngay sau đó, bà Toth lại chạy thoát và lần này bà vẫy được một chiếc xe, còn tên giết người thì tẩu thoát. Khi các thám tử hỏi rằng, hắn định làm gì với bà Toth, Paul trả lời tỉnh bơ rằng: “Tôi muốn lôi bà ta vào rừng để giết chết - chỉ có thế”. Lần này hắn cũng sử dụng một khẩu súng giả, và dắt trong tất chân một trong những con dao tự tạo với lưỡi bằng nhôm rất sắc.

Sau khi suýt giết chết bà Toth, Paul đi đến trạm xe lửa gần đó để tới Frankston. Hắn xuống trạm xe lửa Kananook, gần trạm Frankston và đi bộ trên cầu để tìm kiếm một nạn nhân khác. Ở đó, hắn nhìn thấy Debbie Fream vừa bước ra khỏi chiếc xe Pulsar màu xám và đi vào một cửa hàng bán sữa ở góc đường.

Khi cô Debbie đang ở trong cửa hàng, hắn mở cửa sau của chiếc xe của cô, lẻn vào trong và đóng cửa lại. Khi nghe tiếng chân cô gái bước tới, hắn thu mình nấp ở ghế sau, Debbie bước vào xe và nổ máy chạy đi. Trong bản tự thú, Paul khai rằng: “Tôi chờ cho tới khi cô ta nổ máy, lúc đó sẽ không ai nghe tiếng la hét hoặc bất cứ tiếng động gì. Khi cô ta sang số để quay đầu xe lại, tôi làm cô ta giật mình và đụng nhẹ và bức tường của cửa hàng sữa, làm méo đầu xe một chút. Tôi bảo cô ta im miệng, nếu không sẽ bị bắn nát óc”.

Các thám tử hỏi hắn có để ý thấy bất cứ thứ gì ở băng ghế sau không, Paul trả lời đã nhìn thấy chiếc nôi của em bé bên cạnh hắn ở ghế sau. Như vậy rõ ràng hắn đã biết rằng mình sắp giết chết một người mẹ trẻ. Paul chỉ hướng cho Debbie chạy, tới một khu vực mà hắn biết rất rõ và nghĩ chẳng ai sẽ nhìn thấy hắn giết chết người phụ nữ này. Hắn khai với cảnh sát rằng: “Trên đường chạy xe tới đó, tôi bảo rằng nếu ra dấu hiệu cho bất cứ ai, tôi sẽ bắn vỡ đầu cô ta và chiếc xe này sẽ đầy óc của cô ta”.

Paul yêu cầu nạn nhân dừng xe gần một bụi cây và bước ra ngoài, hắn móc túi lấy ra một sợi dây. Hắn kể rằng: “Tôi giơ sợi dây ra trước mặt cô ta và hỏi có nhìn thấy cái gì đây không. Và khi cô ta giơ bàn tay chụp lấy nó để xem là cái gì, lúc đó tôi liền choàng sợi dây vào cổ cô ta. Cô ta vùng vẫy trong khoảng vài phút”.

Hắn xiết cổ cô Debbie Fream cho tới khi cô bất tỉnh rồi rút con dao ở dưới chân, đâm liên tiếp nhiều nhát vào ngực, cổ và bụng nạn nhân. Hắn kể rằng: “Cũng giống Elizabeth Stevens, Debbie thở bằng những cái lỗ ở cổ. Tôi có thể nghe tiếng thở từ cổ của cô ta”. Các thám tử hỏi điều gì đã xảy ra sau khi hắn đâm nạn nhân vào cổ và ngực. Paul trả lời: “Tôi cởi chiếc áo ra và rồi đâm phập con dao vào bụng cô ta. Tôi muốn nhìn xem bộ ngực cô ta bự cỡ nào”.

https://hv2tconan.forumvi.com

74những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Sun Aug 22, 2010 8:35 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Tên giết người hàng loạt ở Victoria (V)

Khi biết chắc Debbie đã chết, Paul lôi xác cô ta tới một khóm cây và phủ lên nó một ít nhánh cây. Sau đó hắn tìm kiếm con dao đã bị hắn đã đánh rơi sau khi giết người.

Phải mất 5 phút, hắn mới tìm thấy nó và bỏ luôn vào túi. Sau đó, hắn lái chiếc xe của Debbie Fream đến bỏ ở một chỗ rất gần nơi hắn sống. Hắn đi bộ về nhà để điện thoại đến chỗ làm của Sharon và đón cô ta tại trạm xe lửa Kananook.

Buổi sáng hôm sau, Paul trở lại chiếc xe của Debbie để lấy ví tiền, hai bình sữa tươi, một vỉ trứng, một gói thuốc và gói bánh chocolat mà cô đã mua từ cửa hàng sữa buổi tối hôm trước và mang tất cả về nhà. Chỉ có một thứ đáng giá duy nhất trong chiếc ví là tờ giấy bạc 20 đôla. Hắn đã đổ hết hai bình sữa vào bồn rửa bát, ném những quả trứng vào thùng rác và đốt chiếc vỉ trứng bằng bìa cứng đi. Rồi hắn chôn chiếc ví của nạn nhân ở sân golf gần nhà, bên cạnh một con đường dành cho xe đạp, nơi sau này hắn đã giết chết Natalie Russell. Sau đó, hắn tháo rời con dao tự tạo và giấu trong ống thông hơi ở phòng giặt của tòa chung cư.

Các thám tử hỏi Paul: “Tại sao anh lại giết chết cô ấy?” Hắn trả lời: “Cũng giống lý do vì sao tôi đã giết chết Elizabeth Stevens vậy. Tôi chỉ muốn giết người”. Hôm sau, các thám tử bắt đầu thẩm vấn Paul Denyer tại trạm cảnh sát Frankston về vụ giết hại cô Natalie Russell.

Lời tự thú của Paul đã khiến cho các các thám tử vốn đã rất mệt mỏi, sau suốt một đêm làm việc không ngừng nghỉ phải tỉnh ngủ. Lời thú tội bình thản và trơ tráo của Paul Denyer trong vụ giết chết cô Natalie Russell đã khiến hắn trở thành một trong những con quái vật đê tiện nhất của đất nước này.

Hắn đã chuẩn bị sẵn địa điểm bắt cóc buổi sáng sớm hôm đó. Với một cây kìm, hắn đã cắt ba lỗ trên hàng rào mắt cáo ngăn cách con đường dành cho xe đạp và công viên. Mỗi chiếc lỗ cách nhau một mét này đủ lớn để cho hắn và nạn nhân đi xuyên qua và vào công viên đầy cây xanh. Vào khoảng 14h30 hôm đó, hắn lái xe tới con đường dành riêng cho xe đạp ở Skye Road và chờ đợi một nạn nhân đi bộ ngang qua. Kế hoạch của hắn là đi theo nạn nhân và khi cả hai đi tới một lỗ hổng ở hàng rào, hắn sẽ chụp cô gái và đẩy xuyên qua lỗ hổng này đi vào công viên.

Hắn thủ trong người một con dao tự tạo sắc như lưỡi dao cạo và một sợi dây da mà hắn định dùng để xiết cổ nạn nhân. Chờ khoảng 20 phút, hắn nhìn thấy một cô gái mặc bộ đồng phục màu xanh của trường Trung học John Paul bước đi trên con đường dành cho xe đạp. Hắn liền đi theo cô gái. Paul khai: “Tôi đi cách xa cô ta khoảng 10 mét, khi gần tới lỗ hổng thứ hai, tôi đi nhanh hơn, bất ngờ dùng tay bịt miệng và dí dao vào cổ họng cô ta. Đó là khi tôi bị con dao cắt vào vào ngón tay cái...”.

Paul kể rằng, lúc đầu, Natalie vùng vẫy rất dữ dội nhưng khi bị đe dọa cắt cổ, cô gái đã dừng chống cự. Cô gái đề nghị làm tình với hắn. Hắn lắc đầu tỏ ý ghê tởm những cô gái buông thả. Hắn khai: “Cô ta nói với tôi rằng: Anh có thể lấy hết tiền bạc và làm tình với tôi”. Tức giận, Paul buộc cô gái quỳ trước mặt hắn, một tay bóp cổ và một tay cầm dao dí sát mặt Natalie. Khi nạn nhân vùng vẫy liền bị hắn cắt một nhát dao vào mặt. Sau đó, hắn choàng sợi dây da quanh cổ nạn nhân, xiết thật mạnh nhưng sợi dây bị đứt làm đôi. Cô gái vùng vẫy dữ dội khoảng 1 phút cho tới khi bị hắn bẻ cổ và cắt cuống họng.

Con dao tự tạo của Paul Denyer, vũ khí giết người của hắn
Tên giết người đã miêu tả với các thám tử phương cách hắn cắt cổ nạn nhân như sau: “Trước tiên, tôi cắt một vết nhỏ để cho máu chảy. Rồi tôi thọc ngón tay vào cuống họng cô ta, tìm dây thanh và vặn nó thật mạnh”. Các thám tử khó có thể tin được những gì họ đang nghe nhưng bằng cách nào đó, họ đã cố gắng kiềm chế sự ghê tởm để tên sát nhân này tiếp tục thú nhận những tội ác của hắn.

Sau đó hắn đá vào xác của Natalie để biết chắc cô ta đã chết, rạch thêm nhiều nhát dao trên mặt và rồi bỏ đi. Khi đi trở lại con đường lúc trước, với hai bàn tay đẫm máu thọc vào túi quần, Paul nhìn thấy hai cảnh sát đang ghi lại các thông tin từ đăng ký xe của hắn dán trên cửa kính trước, hắn liền quay lại và đi bộ về nhà bằng một con đường khác. Khi về đến nhà, hắn giặt bộ quần áo và giấu vũ khí ở sân sau nhà. Sau đó, hắn đi đón Sharon tại chỗ làm và đến thăm mẹ suốt buổi tối hôm đó.

Sự xúc động duy nhất mà Paul tỏ ra trong suốt thời gian bị thẩm vấn là khi hắn phẫn nộ kể lại cô nữ sinh Natalie Russell đề nghị làm tình với hắn. Ngoài điều này ra hắn dường như rất hãnh diện với các hành động dã man của mình. Paul Denyer đã bị buộc tội giết chết Elizabeth Stevens, Debbie Fream và Natalie Russell, âm mưu giết bà Roszas Toth (lời buộc tội này sau đó đã được đổi thành bắt cóc). Tại phiên xét xử của Toà án Tối cao Victoria diễn ra ngày 15/12/1993, trước chủ toạ Frank Vincent, Paul Denyer đã thừa nhận tất cả những lời buộc tội. Tòa nghe chuyên gia tâm lý Ian Joblin (được chỉ định kiểm tra tâm lý Paul Denyer trong tù khi hắn chờ xét xử) trình bày. Ông Joblin nói rằng, theo quan điểm của ông, Paul đã không thể hiện một chút hối hận nào đối với những tội ác mà hắn gây ra. Hắn tỏ ra say sưa khi kể lại những hành động giết người và hắn cảm thấy rất thích thú khi thuật lại những việc đó.

Paul Denyer thì biện minh rằng, những việc đã xảy ra trong đời hắn khiến hắn trở thành kẻ giết người hàng loạt. Hắn cho rằng, sự dạy dỗ quá nghiêm khắc, sự lạm dụng tình dục của người anh lớn đối với hắn và “thói quen” thất nghiệp của hắn là những nhân tố chính khiến hắn giết chết các cô gái trẻ. Nhưng chuyên gia tâm lý Joblin không chấp nhận lời bào chữa này. Ông nói rằng, có tới hàng ngàn người trong xã hội cũng sống trong những hoàn cảnh tương tự nhưng không có ai trở thành kẻ giết người hàng loạt như hắn. Ông Joblin nói trước tòa rằng, tất cả những kẻ tội phạm mà ông đã từng tiếp xúc trong rất nhiều năm làm việc, không có một ai có thái độ mảy may như Paul Denyer.

Ông Joblin cho rằng Paul Denyer là một loại tội phạm nguy hiểm nhất - một kẻ sát nhân giết người hàng loạt mà không có lý do gì. Bản chất của hắn vô cùng độc ác, cách ứng xử hung hăng ngay từ thời thơ ấu và hắn thích thú khi thấy người khác phải đau đớn. Ông Joblin nói thêm rằng Paul Denyer là một kẻ thích các trò tàn ác, sự thích thú và hài lòng sau mỗi vụ giết người của hắn tan biến rất mau lẹ, do đó hắn cảm thấy cần giết người nữa để thỏa mãn thú tính. Ông cho biết không có cách chữa trị hữu hiệu nào cho tính ác dâm của hắn.

Cuối cùng, vào ngày 20/12/1993, Chánh án Vincent đã tuyên phạt Paul Denyer 3 bản án tù chung thân vĩnh viễn không được phóng thích. Hắn còn bị phạt 8 năm tù vì vụ bắt cóc và hành hung bà Roszsa Toth. Tổng hình phạt áp dụng với tên giết người dã man này là tù chung thân.

https://hv2tconan.forumvi.com

75những vụ án nổi tiếng - Page 3 Empty Re: những vụ án nổi tiếng Sun Aug 22, 2010 8:36 pm

kid

kid
Viện Trưởng
Viện Trưởng
CYM
Kiểu trả thù ghê rợn nhất (I)

Sau đám cưới năm 1988, mối quan hệ vợ chồng giữa John Wayne Bobbitt, 26 tuổi, và người vợ gốc Ecuado, Lorena, 24 tuổi, ngày càng trở nên rất căng thẳng.

Vấn đề bắt nguồn từ các khó khăn về tài chính, việc ngoại tình của John và cách đối xử tồi tệ của anh ta với vợ cả về tinh thần lẫn thể xác. Sự căng thẳng lên đến cực điểm vào ngày 23/6/1993, sau một buổi nhậu nhẹt với bạn bè, John trở về nhà ở Manassas trong trạng thái say xỉn và đòi vợ phải “chiều” mình.

Lorena tỏ ra rất khó chịu về việc này. Trong trạng thái bị kích độnh cô đã bước xuống khỏi giường và đi vào bếp để uống một ly nước. Ở đó, cô nhìn thấy một con dao thái thịt dài 8 inch và cầm nó lên. “Những ký ức về sự bạo hành trong quá khứ chợt hiện lên trong đầu”, như lần đầu tiên John đã hãm hiếp cô, hay việc cô bị anh ta bắt phải phá thai. Cầm con dao trong tay, Lorena bước vào phòng ngủ, giựt phăng tấm chăn mà người chồng đang đắp và cắt đứt gần nửa “của quý” của anh ta.

Khi John đang vật vã vì đau đớn và mất nhiều máu, Lorena ra khỏi nhà, bước vào xe, nổ máy và chạy đi mất. Trong cơn hoảng hốt, cô không hề biết rằng mình vẫn đang nắm chặt khúc dương vật của John trong tay. Choáng váng vì sợ hãi, cô mở cửa kính xe và ném nó xuống cánh đồng. Khi hoàn hồn, cô dừng xe và gọi 911. John đã được đưa vào bệnh viện cấp cứu và điều trị vết thương khủng khiếp này. Các bác sĩ cho John biết có thể anh ta sẽ không bao giờ có thể “quan hệ” được nữa bởi vì bộ phận sinh dục đã bị hư hại trầm trọng. Tuy nhiên, sau một cuộc tìm kiếm nhiều giờ, cảnh sát đã tìm thấy khúc dương vật bị cắt này. Họ cho ngay nó vào thùng nước đá và mang đến bệnh viện.

Các bác sĩ đã tiến hành giải phẫu cho John trong suốt 9 tiếng để nối lại dương vật cho anh ta. Cuộc giải phẫu đã thành công đáng kinh ngạc và các bác sĩ tin tưởng anh ta sẽ hồi phục hoàn toàn sau một năm. Mặc dù rất lạc quan về tình trạng thể chất của John, họ hiểu rằng sự tổn hại về mặt tình cảm rất có thể sẽ kéo dài. Trong khi đó Lorena bị bắt giữ và bị buộc tội cố ý gây thương tích cho người khác.

Khi bị bắt, Lorena đã khai với cảnh sát rằng: “Anh ta luôn luôn đạt được khoái cảm và không bao giờ quan tâm đến tôi. Anh ta rất ích kỷ”. Và đó là lý do tại sao cô ta đã cắt đứt “của quý” của chồng.

Vụ việc trên đã thu hút sự chú ý của giới truyền thông từ khắp thế giới. Trong khi phiên xử trắng án những cáo buộc bạo hành tình dục của John vào năm 1993 chỉ được báo chí đăng tin rất ít thì phiên tòa xét xử Lorena vào tháng 2/1994 lại thu hút được sự chú ý rất lớn. Theo cuộc thăm dò của Newsweek poll, đã có tới 60 phần trăm dân số Hoa Kỳ theo dõi vụ án hi hữu này.

Trong hơn một tuần lễ, các nhân chứng trình bày chứng cớ, người dân Hoa Kỳ đã lắng nghe John và Lorena tiết lộ các chi tiết về mối quan hệ vợ chồng của họ và các sự kiện đã xảy ra kể cả vụ cắt “của quý” của John. Lorena nói rằng John đã thường xuyên có những hành động thô bạo với cô bằng những cú đá, bóp cổ và cưỡng hiếp. Cô khai cũng đã bị đối xử tệ hại về mặt tinh thần khi John khoe một danh sách các phụ nữ mà anh ta đã quan hệ và buộc cô phải phá thai.

Các nhân chứng khác nói rằng họ đã nhìn những hậu quả bạo hành trong gia đình John-Lorean cả về mặt thể xác lẫn tinh thần, như các vết thâm tím và các vết cắt trên thân thể người vợ. Thậm chí, những người bạn của John cũng nói rằng anh chàng này thường hãnh diện khoe việc anh ta đã buộc Lorena “quan hệ” và khống chế cô vợ như thế nào.

John đã phủ nhận tất cả những hình thức bạo hành cả về mặt thể xác lẫn tinh thần mà Lorena khai trước toà. Tuy nhiên, khi bị thẩm vấn, câu chuyện của anh ta lại đầy mâu thuẫn. Điều này đã làm suy yếu trầm trọng lý lẽ của bên khởi tố. Bồi thẩm đoàn nhận thấy lời khai của Lorena đáng tin cậy hơn. Sau 7 tiếng đồng hồ nghị án, bồi thẩm đoàn kết luận Lorena “không có tội” vì bị rối loạn tâm thần và sự rối loạn này chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn. Thẩm phán quyết định Lorena phải trải qua các cuộc giám định y khoa trong vòng 45 ngày tại một bệnh viện tâm thần, sau đó cô sẽ được thả tự do.

https://hv2tconan.forumvi.com

Sponsored content


CYM

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang  Thông điệp [Trang 3 trong tổng số 5 trang]

Chuyển đến trang : Previous  1, 2, 3, 4, 5  Next

Permissions in this forum:
Bạn không có quyền trả lời bài viết